LỚP CHUYÊN TOÁN NGHỆ AN KHÓA 3 (1967 – 1970)
Giới thiệu chung
Ngày 14 – 9 – 1965, Phó Thủ tướng Phạm Hùng thay mặt Hội đồng Chính phủ ký ban hành Quyết định số 198/CP về việc mở những lớp cấp III phổ thông dạy học sinh có năng khiếu về toán.
Mặc dù đang trong thời kỳ giặc Mỹ tiến hành cuộc chiến tranh đặc biệt, điên cuồng ném bom đánh phá miền Bắc, nhưng UBND tỉnh Nghệ An vẫn quyết tâm triển khai mở các khóa toán “đặc biệt” – (ngày ấy, các lớp chuyên toán được gọi là các lớp toán đặc biệt) – theo đúng tinh thần QĐ 198/CP của HĐCP. Do điều kiện chiến tranh, nên tỉnh chủ trương gửi các khóa chuyên toán được mở vào các trường cấp III được lựa chọn tại các địa phương khác nhau trong tỉnh. Khóa 1 (1965 – 1968) được bố trí học tại Trường cấp III Vinh, khóa 2 (1966 – 1969) học tại Trường cấp III Thanh Chương (lớp 8 + 9) và Trường cấp III Quỳnh Lưu (lớp 10).
Khóa 3 lớp toán đặc biệt được tỉnh quyết định cho tổ chức học tại Trường phổ thông cấp III Đô Lương II, nằm ở xã Lam Sơn, Đô Lương, với 60 học sinh được tuyển chọn trên cơ sở kết quả thi học sinh giỏi toán cấp II toàn tỉnh đến từ các địa phương khác nhau trong tỉnh. Do điều kiện chiến tranh, nên chỉ có 54 học sinh tựu trường và được chia thành 2 lớp (8C và 8D). Toàn bộ học sinh 2 lớp được gửi ở nhờ tại các hộ gia đình trong xã Lam Sơn, Bồi sơn (8C ở Lam Sơn và 8D ở Bồi Sơn) – mỗi nhà từ 1-2 em. Trường tổ chức 2 bếp ăn tập thể cho 2 lớp. Bếp ăn lớp 8C được bố trí ở nhà bà Đoan (bà Đoan nhận nấu ăn cho lớp), còn bếp ăn lớp 8D được đặt tại nhà chị Chấn và do chị làm bếp trưởng.
Lớp 8C có 28 học sinh do Thầy Nguyễn Khắc Tuệ làm chủ nhiệm. Lớp 8D có 26 học sinh với chủ nhiệm là Thầy Nguyễn Trọng Mạo.
Danh sách học sinh lớp 8C: 1. Lê Trọng Đào – Anh Sơn 2. Nguyễn Xuân Chính- Thanh Chương 3. Trần Hữu Hải – Nam Đàn 4. Vũ Quốc Phóng – Vinh 5. Trần Kim Cường – Quỳnh lưu 6. Nguyễn Sót – Quỳnh Lưu 7. Nguyễn Hồng Liêm – Nam Đàn 8. Doãn Ngọc Liên – Yên Thành 9. Dương Quốc Dũng – Vinh 10. Thuận (Liệt sỹ) – Đô Lương 11. Thái Văn Lan – Yên Thành 12. Cao Đăng Tân – Quỳnh lưu 13. Đinh Thị Cúc – Thanh Chương 14. Bành Đức Vỹ – Nam Đàn 15. Đào Xuân Thanh – Đô Lương 16. Bùi Sỹ Hùng – Nam Đàn 17. Trần Nhật Thành – TP Vinh 18. Bùi Văn Tứ – TP Vinh 19. Nguyễn Đình Thắng – Thanh Chương 20. Trần Bá Phi – Hưng Nguyên 21. Nguyễn Phương Sơn – Thanh Chương 22. Nguyễn Cảnh Dần – Đô Lương 23. Nhâm – Thanh Chương 24. Nguyễn Xuân Thông – Tương Dương 25. Mão – Quỳ Hợp 26. Nguyễn Trí Châu – Vinh 27. Nguyễn Hữu Phúc – Yên Thành 28. Linh |
Danh sách học sinh lớp 8D: 1. Trần Minh Quang – Quỳnh Lưu 2. Phạm Ngọc Huyền – Quỳnh Lưu 3. Phạm Nguyên Nhu – Diễn Châu 4. Trần Quốc Hiển – Nghi Lộc 5. Nguyễn Nghiêm – Nghi Lộc 6. Nguyễn Bá Đồng – Nghi Lộc 7. Võ Văn Tuệ – Nghi Lộc 8. Thái Bá Cần – Hưng Nguyên 9. Nguyễn Xuân Phan – Nam Đàn 10. Nguyễn Quang Điền – Nam Đàn 11. Nguyễn Ngọc Hải – Nam Đàn 12. Trần Bá Sỹ – Thanh Chương 13. Lê Văn Sáng – Thanh Chương 14. Phan Sỹ Thân – Thanh Chương 15. Nguyễn Văn Hậu – Thanh Chương 16. Lê Phương Thảo – Thanh Chương 17. Nguyễn Thị Hồng – Thanh Chương 18. Nguyễn Lâm Tửu – Thanh Chương 19. Trần Hồng Bơ – Đô Lương 20. Bùi Quốc Tuấn – Đô Lương 21. Lương Văn Xọn – Con Cuông 22. Hà Thế Vinh – Con Cuông 23. Phan Văn Các – Nghĩa Đàn 24. Ngô Minh Đào – Nghĩa Đàn 25. Đậu Phi Đẩu – Quỳ Châu 26. Lập – Diễn châu |
(Bạn Lập đã hy sinh trong chiến tranh, bạn Linh, bạn Nhâm, bạn Mão không liên hệ được nên không nhớ họ tên đầy đủ)
Để có lớp học, trong gần 1 tháng đầu tiên học sinh 2 lớp phải tự vào rừng chặt cây lấy gỗ, cắt cỏ đánh tranh để dựng lán học. Vì đang thời chiến, nhằm đảm bảo an toàn, lớp học được đào sâu vào lòng đất, đắp lũy vây quanh và làm thêm hầm chữ A để tránh bom. Dù chỉ là lớp học mái tranh, vách đất, nhưng thầy và trò đã bỏ công cố gắng làm thật đẹp. Tranh được lợp thẳng hàng, cách đều tăm tắp. Mái lũy taluy hầm được đổ nước và nện phẳng lỳ. Hai lớp học của khóa trở thành những lớp học đẹp nhất trường lúc đó.
Do được bố trí vào học chung tại trường cấp III Đô Lương 2, nên chỉ riêng môn toán là do thầy Tuệ và thầy Mạo đảm trách, còn các môn học khác được học cùng các thầy, cô trong trường. Tuy nhiên, Ban Giám hiệu nhà trường (thầy Trần Cường – Hiệu trưởng, thầy Cao Đăng – Phó HT, Bí thư chi bộ nhà trường) cũng đã ưu tiên lựa chọn những thầy, cô giỏi nhất của các bộ môn để dạy cho 2 lớp chuyên toán (như thầy Quang dạy vật lý, cô Lệ, thầy Cởn dạy văn, cô Đướng dạy hóa, thầy Đăng dạy môn chính trị, thầy Việt dạy thể dục, thầy Thuyên dạy địa lý,….)
Vì là lớp toán đặc biệt của tỉnh, nên Ty Giáo dục cũng cũng quyết định cấp riêng cho mỗi học sinh một bộ sách giáo khoa (của hiếm của thời đó). Do vậy vào đầu mỗi năm học, lớp thường phải cử 3-4 bạn có xe đạp đi từ Đô Lương xuống Diễn Châu (là nơi Ty Giáo dục đóng trụ sở) để nhận sách. Quảng đường cũng chỉ khoảng hơn 50 km, nhưng lại không hề ngắn vào những năm đó. Thông thường, mỗi lần như vậy, các bạn được cử đi nhận sách sẽ cố gắng rẽ qua nhà mấy bạn ở vùng biển để lấy thêm ít muối cho nhà ăn (là hàng phân phối quý hiếm của thời chiến).
Kết thúc năm học đầu tiên, vào năm học 1968 – 1969, Ty Giáo dục tỉnh quyết định thu gọn lại chỉ duy trì một lớp với 30 học sinh (lớp 9C). Số học sinh dư ra được chuyển về các trường địa phương để học tiếp. Trong danh sách ở lại có bạn Đinh Thị Cúc, nhưng vì chỉ có một mình là nữ nên bạn Cúc cũng xin được chuyển về quê Thanh Chương luôn. Do vậy lớp chỉ còn lại 29 học sinh nam, nhưng sau đó có thêm bạn Phan Xuân Vân chuyển từ lớp chuyên toán Hà Tĩnh ra, vì thế sĩ số của lớp vẫn là 30. Thầy Nguyễn Khắc Tuệ là giáo chủ nhiệm lớp.
Danh sách học sinh lớp 9 (10)C:
1. Lê Trọng Đào – Anh Sơn
2. Nguyễn Xuân Chính – Thanh Chương
3. Trần Hữu Hải – Nam Đàn
4. Vũ Quốc Phóng – Vinh
5. Trần Kim Cường – Quỳnh Lưu
6. Nguyễn Sót – Quỳnh Lưu
7. Nguyễn Hồng Liêm – Nam Đàn
8. Doãn Ngọc Liên – Yên Thành
9. Dương Quốc Dũng – Vinh
10. Trần Hồng Bơ – Đô Lương
11. Thái Văn Lan – Yên Thành
12. Cao Đăng Tân – Quỳnh Lưu
13. Bùi Quốc Tuấn – Đô Lương
14. Bành Đức Vỹ – Nam Đàn
15. Đào Xuân Thanh – Đô Lương
16. Bùi Sỹ Hùng – Nam Đàn
17. Trần Nhật Thành – TP Vinh
18. Bùi Văn Tứ – TP Vinh
19. Nguyễn Đình Thắng – Thanh Chương
20. Trần Bá Phi – Hưng Nguyên
21. Nguyễn Phương Sơn – Thanh Chương
22. Trần Bá Sỹ – Thanh Chương
23. Lê Văn Sáng – Thanh Chương
24. Thái Bá Cần – Hưng Nguyên
25. Phạm Ngọc Huyền – Quỳnh Lưu
26. Võ Văn Tuệ – Nghi Lộc
27. Nguyễn Xuân Phan – Nam Đàn
28. Trần Minh Quang – Quỳnh Lưu
29. Ngô Minh Đào – Nghĩa Đàn
30. Phan Xuân Vân – TP Vinh
3 năm học ở Lam Sơn – là 3 năm cả tập thể lớp C chuyên toán luôn miệt mài học tập, phấn đấu, bền gan vượt khó để luôn giữ vững vị trí đầu tiên trong trường trên tất cả mọi mặt và đã có những thành tích xuất sắc. Trong các năm học đã có nhiều bạn là học sinh tiến tiến, học giỏi toàn diện tất cả các bộ môn. Có nhiều bạn đoạt giải cao trong các kỳ thi học sinh giỏi toàn tỉnh. Đặc biệt trong kỳ thi học sinh giỏi toán toàn Miền Bắc năm 1970, toàn bộ đội tuyển của tỉnh Nghệ an dự thi năm đó (15 chính thức, 3 dự khuyết) đều là học sinh của lớp chuyên toán 10C, trong đó, bạn Nguyễn Phương Sơn giành giải Ba và 2 bạn (Cao Đăng Tân và Lê Văn Sáng) giành giải khuyết khích cho đội tuyển của tỉnh Nghệ An (kỳ thi năm đó không có giải Nhất và giải Nhì, chỉ có 2 giải Ba là Nguyễn Phương Sơn và Đặng Hùng Thắng – Hà Nội). Kỳ thi tốt nghiệp lớp 10 có 2 bạn đạt trên 40 điểm (Trần Hồng Bơ, Thái Bá Cần). Trong kỳ thi nước ngoài ở Hà Nội có 2 bạn đạt điểm cao và được gặp Bộ trưởng Bộ Đại học và Trung học chuyên nghiệp Tạ Quang Bửu trước ngày lên tàu sang nước bạn học tập (Thái Bá Cần và Nguyễn Đình Thắng)…
Kết thúc năm học lớp 10, 29/30 người tiếp tục đi học ở các trường đại học trong nước và ở nước ngoài (19 người đi học ở Liên xô, Đức, Tiệp Khắc, Ba Lan), chỉ có 1 người (Nguyễn Sót) vì lý do sức khỏe không đáp ứng yêu cầu nên buộc phải về quê để chữa bệnh.
3 năm – một quãng thời gian rất ngắn trong đời người. Thế nhưng đối với những cậu học sinh độ tuổi 13 – 15 (đa số xuất phát từ nông thôn), vừa mới lớn đã phải xa gia đình, xa quê để tự thân sống và học tập trong môi trường xa lạ, đầy gian khó nhưng vô cùng mới mẻ, thú vị, với lòng quyết tâm và nhiệt huyết tràn trề, đầy say mê, hứng thú đã đủ để lưu đọng lại trong ký ức vô vàn kỷ niệm. Đó là những kỷ niệm về ngôi trường mái lá đơn sơ, về những người Thầy, Cô hết lòng vì học sinh; kỷ niệm về tình bạn, tình thân và cả những mối tình học trò luôn gắn bó, biết chia sẻ mọi khó khăn, khổ cực để cùng vươn lên trong cuộc sống; là những kỷ niệm về một vùng quê tuy nghèo khó, nhưng rất đẹp và yên bình với những người dân bình dị, mộc mạc nhưng lại giàu lòng nhân ái… Những ký ức đó hằn sâu vào tâm khảm của mỗi người và không thể phai nhòa theo thời gian.
Lớp chuyên toán Nghệ An khóa 3 trong lần gặp mặt các thầy, cô giáo năm 2010
Gặp mặt kỷ niệm 50 năm ra trường (2020)
Phụ lục:
Thầy Nguyễn Khắc Tuệ Năm sinh: 11/07/1940 Quê quán: Đức Thọ, Hà Tĩnh Sau khi tốt nghiệp cấp III, Thầy được cử đi học ở Liên Xô (cũ), nhưng vì sức khỏe yếu nên ở lại học Đại học SP Vinh. Năm 1963, sau khi ra trường, thầy về dạy trường cấp 3 Đô Lương II. Năm 1967 Ty Giáo dục Nghệ An giao cho Thầy trách nhiệm dạy toán cho các lớp chuyên toán và được cử làm chủ nhiệm 2 khóa chuyên toán của Tỉnh (1967 – 1970 và 1970 – 1973). Từ năm 1974, Thầy về công tác tại Sở Giáo dục Nghệ An. Trong những năm 1978 – 1983 Thầy được cử đi tăng cường cho Sở Giáo dục tỉnh Sơn La. Năm 1984, Thầy trở lại Sở Giáo dục NA và làm phó Hiệu trưởng trường PTTH Hà Huy Tập (TP. Vinh). Từ năm 1985 đến lúc nghỉ hưu Thầy là Hiệu trưởng trường PTTH Dân tộc nội trú tỉnh Nghệ An. Sau khi nghỉ hưu theo chế độ, Thầy được mời về giảng dạy tại trường PTTH dân lập Nguyễn Trường Tộ (TP Vinh) và công tác ở đó đến năm 2010. Hiện nay Thầy nghỉ cùng gia đình tại Số 4 Ngõ 41 Dương Văn Nga TP. Vinh, Nghệ An. |
||
HỌC SINH LỚP CHUYÊN TOÁN KHÓA 3 (1967 – 1970) |
||
1. TS. Lê Trọng Đào – Lớp trưởng Sinh năm 1952 – Mất năm 2024 Quê quán: Phúc Sơn, Anh Sơn, Nghệ An. Lưu học sinh trường Đại học Khí tượng Thủy văn Odessa, Ukraine. Nguyên PGĐ Trung tâm Hải văn – Tổng cục biển – hải đảo VN, Bộ KHCN & MT. |
||
2. Trần Hữu Hải – Bí thư chi đoàn TNCS Sinh năm 1952 – Mất 2000 Quê quán: Nam Chung, Nam Đàn, Nghệ An Tốt nghiệp Đại học Tổng hợp HN Nguyên TP THPT Sở Giáo dục tỉnh Nghệ An. |
||
3. Trần Hồng Bơ Sinh năm 1951 Quê quán: Lạc Sơn, Đô Lương, Nghệ An Lưu học sinh trường ĐHTH Leningrad, Liên Xô cũ Nơi công tác trước khi nghỉ hưu: Viện Vật lý Kỹ thuật – Viện KH&CN Quân sự, Bộ Quốc phòng. |
||
4. PGS. TS. Thái Bá Cần Sinh năm 1953 Quê quán: Hưng Thái, Hưng Nguyên, Nghệ An Lưu học sinh trường Đại học Tổng hợp Bacu – Azerbaijan (Liên Xô cũ). Nơi công tác trước khi nghỉ hưu: Trường ĐH Sư phạm kỹ thuật TP HCM. |
||
5. Nguyễn Xuân Chính Sinh năm 1952 – Mất năm 2017 Quê quán: Thanh Chương – Nghệ An Lưu học sinh trường Đại học Cơ khí ô tô Moscơva – MAMI (Liên Xô cũ) Nguyên giảng viên Trường Đại học Xây dựng Hà Nội. |
||
6. Trần Kim Cường Sinh năm 1952 – Mất năm 1977 Quê quán: Quỳnh Lưu – Nghệ An Lưu học sinh trường Đại học Cơ khí ô tô Moscơva – MAMI (Liên Xô cũ) Nguyên giảng viên Trường Đại học Xây dựng Hà Nội |
||
7. Dương Quốc Dũng Sinh năm 1952. Mất năm 2005 Quê quán: TP Vinh – Nghệ An Tốt nghiệp Đại học Nông nghiệp I Hà Nội Nguyên Giám đốc Nông trường bò sữa Ba Vì Hà Nội |
||
8. Ngô Minh Đào Sinh năm 1953. Mất năm 1994 Quê quán: Nghĩa Đàn, Nghệ An Tốt nghiệp ĐH Tổng hợp Hà Nội Nguyên cán bộ Viện Nghiên cứu Thủy lợi (nay là Viện KH Thủy lợi) HN. Mất khi đang làm NCS ở Nga. |
||
9. Bùi Sỹ Hùng Sinh năm 1954 Quê quán: Nam Thanh, Nam Đàn, NA Lưu học sinh Trường ĐH Trắc địa – Bản đồ Moscơva – (LX cũ). Nơi công tác trước khi nghỉ hưu: Viện NCKH Ngân hàng, Học viện Ngân hàng Hà Nội |
||
10. Phạm Ngọc Huyền Sinh năm 1952 Quê quán: Quỳnh Tiến, Quỳnh Lưu, Nghệ An Tốt nghiệp Đại học Bách khoa HN Nơi công tác trước khi nghỉ hưu: Viện Năng lượng, Bộ Công thương |
||
11. Thái Văn Lan Sinh năm 1952 Quê quán: Tăng Thành, Yên Thành NA Lưu học sinh Trường ĐH Tổng hợp Minck – Belarus Nơi công tác trước khi nghỉ hưu: Viện KHKT bưu điện, Tập đoàn BCVT VN |
||
12. Nguyễn Hồng Liêm Sinh năm 1952. Mất năm 2023 Lưu học sinh CHDC Đức. Quê quán: Nam Cường, Nam Đàn, NA Nguyên GĐ Công ty CP giám định Đại việt (DAVICONTROL) |
||
13. Doãn Ngọc Liên Sinh năm 1952. Mất năm 2023 Quê quán: Long Thành, Yên Thành, NA Lưu học sinh trường ĐH Tổng hợp Varsava – Ba Lan Nguyên cán bộ Viện Tính toán Điều khiển – Viện KH VN |
||
14. Nguyễn Xuân Phan Sinh năm 1952. Mất năm 2023 Quê quán: Nam Đàn, Nghệ An Tốt nghiệp Đại học Bưu chính Viễn thông HN Nguyên cán bộ Sở Bưu chính Viễn thông Nghệ An |
||
15. TS. Trần Bá Phi Sinh năm 1952 Quê quán: Hưng Nguyên, Nghệ An Học Đại học Tổng hợp Hà Nội Nơi công tác trước khi nghỉ hưu: Trường ĐH Kinh tế Quốc dân Hà Nội |
||
16. GS. TS. Vũ Quốc Phóng Sinh năm 1954. Mất năm 2015 Quê quán: Thanh Lĩnh, Thanh Chương, Nghệ An Lưu học sinh trường ĐH Tổng hợp Kharcop – Liên xô cũ Nguyên Trưởng khoa Đào tạo SĐH Trường ĐH Ohio State University – Mỹ |
||
17. Trần Minh Quang Sinh năm 1952. Mất năm 2021 Quê quán: Quỳnh Long, Quỳnh Lưu, NA Tốt nghiệp Đại học Hàng hải Hải Phòng Nguyên cán bộ Công ty Thủy sản Chiến Thắng, TP. Hồ Chí Minh |
||
18. Lê Văn Sáng Sinh năm 1952. Mất năm 2005 Quê quán: Thanh Chương, Nghệ An Lưu học sinh Trường ĐH Tổng hợp Kỹ thuật Dresden – CHDC Đức cũ. Nguyên cán bộ Sở KHCN Hà Nội. |
||
19. Nguyễn Phương Sơn Sinh năm 1951 Quê quán: Thanh Tường, Thanh Chương NA Lưu học sinh ĐHTH Bacu, Azerbaijan; Học viện Hậu cần (Liên Xô cũ) Nơi công tác trước khi nghỉ hưu: Cục 12 – Tổng cục II Bộ Quốc phòng. |
||
20. Nguyễn Sót Sinh năm 1954. Mất năm 1981. Quê quán: Quỳnh Lưu, Nghệ An Sức khỏe yếu nên không đủ điều kiện vào ĐH. Mất sớm vì bệnh hiểm nghèo. |
||
21. Trần Bá Sỹ Sinh năm 1952. Mất năm 2020. Quê quán: Thanh Chương, Nghệ An Tốt nghiệp ĐH Sư phạm Vinh, Nghệ An Nguyên Hiệu trưởng Trường THCS năng khiếu Thiệu Yên (nay là THCS Lê Đình Kiên), Yên Định, Thanh Hóa |
||
22. Cao Đăng Tân Sinh năm 1952 Quê quán: Thừa thiên – Huế Lưu học sinh trường ĐH Tổng hợp Karlova – Tiệp Khắc (cũ) Nơi công tác trước khi nghỉ hưu: Trường ĐH Khoa học Tự nhiên – Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh |
||
23. Đào Xuân Thanh Sinh năm 1952 Quê quán: Lam Sơn, Đô Lương, NA Lưu học sinh Trường ĐH Xây dựng Apolda CHDC Đức cũ Nơi ở hiện nay: CHLB Đức |
||
24. Trần Nhật Thành Sinh năm 1953 Quê quán: TP Vinh, Nghệ An Lưu học sinh Trường ĐH Xây dựng Kharcop – Liên Xô cũ Nơi công tác trước khi nghỉ hưu: Trường ĐH Xây dựng Hà Nội. Hiện nay là Chủ tịch HĐQT Tập đoàn Xây dựng Delta. |
||
25. Nguyễn Đình Thắng Sinh năm 1953 Quê quán: Nghi hòa, Nghi Lộc, NA Lưu học sinh Trường ĐH Xây dựng Leningrad – Liên xô cũ Nơi công tác trước khi nghỉ hưu: Công ty CP nước và môi trường VN |
||
26. Bùi Quốc Tuấn Sinh năm 1952 Quê quán: Lam Sơn, Đô lương, NA Lưu học sinh Trường ĐH Tổng hợp Kỹ thuật Dresden – CHDC Đức cũ Nơi ở hiện nay: CHLB Đức |
||
27. Võ Văn Tuệ Sinh năm 1953 Quê quán: Nghi Lộc, Nghệ An Tốt nghiệp Đại học Sư phạm Vinh – NA Nơi công tác trước khi nghỉ hưu: Trường PTTH Cửa Lò, Nghi Lộc, NA |
||
28. TS. Bùi Văn Tứ Sinh năm 1952 Quê quán: TP Vinh, Nghệ An Tốt nghiệp ĐH Tổng hợp HN Nơi công tác trước khi nghỉ hưu: Bộ Lao động Thương binh và Xã hội VN |
||
29. Phan Xuân Vân Sinh năm 1953 Quê quán: Đức Yên, Đức Thọ, Hà Tĩnh Lưu học sinh Trường ĐHTH Kỹ thuật Freiberg – CHDC Đức cũ. Nơi công tác trước khi nghỉ hưu: Công ty Tư vấn Xây dựng Điện I – Bộ Công thương |
||
30. Bành Đức Vỹ Sinh năm 1953 Quê quán: Nam Cường, Nam Đàn, Nghệ An Lưu học sinh ĐH Bách khoa Minck – Belarus Nơi công tác trước khi nghỉ hưu: Công ty Tư vấn Xây dựng Điện I – Bộ Công thương |
50 NĂM: TRỞ LẠI LAM SƠN
Ngày đầu thu ghé qua miền đất cũ
Nơi đã từng ấp ủ cánh chim non
Vẫn yên bình vùng đất đỏ Lam Sơn
Nhưng gợi nhớ cồn cào bao kỷ niệm!
Qua nửa kỷ trong lòng luôn hiện rõ
Hình bóng xưa vẫn luôn có trong mơ
Sông Lam kia dù thay bến, đổi bờ
Vẫn chẳng thể xoá mờ bao ký ức!
Đứng cạnh bến đò mà thấy lòng thổn thức
Nhìn dòng sông như dải lụa mờ sương
Chính nơi này bao hình ảnh vấn vương
Nhắc về một thời đầy thương đầy nhớ!
Có thể nào quên ba năm dài gian khó
Ba chục chàng trai tươi trẻ măng tơ
Lòng đầy khát khao, hy vọng, ước mơ
Dù biết tương lai đầy thử thách đang chờ!
Nhớ làm sao những ngày đầy gian khổ
Cơm chẳng đủ ăn, áo sờn vai sờn cổ
Xa mẹ, xa quê, đêm hằn sâu nỗi nhớ
Vẫn học, vẫn vui, vẫn nghịch tung trời!
Tụ về đây từ khắp nẻo muôn nơi
Vừa qua tuổi thiếu niên mới ăn đã đói
Rất thương nhau bởi cùng chung cảnh ngộ
Nên sẵn lòng chia từng miếng sắn củ khoai
Nhớ những buổi học xong chiều muộn
Cùng ra sông để gánh nước, tập bơi
Những ngày vào rừng lấy củi mệt đứt hơi
Sắn nướng ăn xong say nằm thẳng cẳng!
Ở một lớp toàn là những thằng trai
Thi văn nghệ thôi thì đành giả gái
Chẳng chịu thua ai nên từng đoạt giải
Để có lần được đi diễn ở Bồi Sơn!
Nhớ làm sao cả một lũ trai non
Học theo thầy: áo bỏ trong quần đồng loạt
Đứa thấp đứa cao nhưng nào có khác
Những củ lạc đôi: thương hiệu một thời!
Tuổi măng tơ đâu chỉ học chỉ chơi
Đã có người biết thầm thương trộm nhớ
Tình buổi học trò đầy mộng mơ dễ sợ
Vẫn vấn vương lòng mãi mãi không thôi!
……
Kỷ niệm xưa kể sao hết thành lời
Bởi đã được hằn sâu vào nỗi nhớ
Bởi vì đó là cả thời trai trẻ
Sẽ theo ta đi hết cả cuộc đời!
(9/2020).