LỚP CHUYÊN TOÁN NGHÊ AN KHÓA 1968-1971
- GIỚI THIỆU CHUNG
Ban đầu lớp gồm 28 học sình lớp 8 của các trường cấp 3 tại các huyện được Ty Giáo dục Nghệ An tuyển chọn tập trung về Trường cấp 3 Yên Thành 2 vào khoảng giữa tháng 10 năm 1968. Do Mỹ vẫn còn ném bom đánh phá từ vĩ tuyến 19 trở vào nên Ty Giáo dục Nghệ An gửi lớp vào Trường cấp 3 Yên Thành 2 và được gọi là lớp 8D. Sau một tháng một bạn người Diễn Châu xin được trở về nhà học lại lớp thường vì lý do cá nhân, vì vậy sỹ số của lớp chỉ còn 27 học sinh.
Trường cấp 3 Yên Thành 2 đóng ở Xóm Chọ Bùi, xã Bắc Thành. Học sinh của lớp được nhà trường gửi ăn, ở cùng các gia đình ở Xóm Trại Xanh, cách Trường chừng 01 cây số đi vòng quanh chân mấy quả đồi. Gia đình nào rộng rãi, khá giả thì nhân 2 học sinh, còn lại phần lớn ở ghép 1 người.
Vì là lớp đặc biệt nên ngoài thầy dạy toán chuyên trách kiêm chủ nhiệm, Ty Giáo Dục còn biên chế riêng cho lớp 2 giáo viên dạy ngoại ngữ, thầy Đào Văn Bảo dạy Nga văn và thầy Huấn dạy Trung văn. (Vì sợ quá tải cho học sinh không theo được nên Ty đã quyết định chỉ phải học Nga văn). Ngoài môn Toán và Ngoại ngữ, các môn khác đều do các thầy, cô của Trường cấp 3 Yên Thành 2 lên lớp.
Thầy dạy toán kiêm chủ nhiệm của lớp là 2 giáo viên giàu kinh nghiệm và nhiệt tình với học trò. Thầy chủ nhiệm lớp 8D ở Trường cấp 3 Yên Thành 2 là thầy Lê Anh Tề quê Hà Tĩnh. Vi thày Lê Anh Tề được Ty Giáo dục Nghệ An điều động nhận công tác mới nên thầy Nguyễn Duy Tịnh quê Quảng Bình đã tiếp tục dạy toán lớp khóa này khi lớp chuyển về Trường cấp 3 Đô Lương 2 ở xã Lam Sơn, huyện Đô Lương theo chủ trương dồn cả 3 lớp 8,9,10 chuyên toán vào một điểm trường.
Phần dưới đây chúng tôi muốn giới thiệu sơ bộ những nét kỷ yếu cơ bản của các thầy đã gắn bó với lớp chúng tôi và của các thành viên lớp chúng tôi trên bước đường trang bị kiến thức và quá trình trải nghiệm cuộc sống, trưởng thành trong sự nghiệp cho đến khi nghỉ chế độ sau khi rời mái trường chuyên toán..
GIÁO VIÊN |
|||
Sinh năm 1934 |
Chủ nhiệm, chuyên trách dạy môn toán cho lớp chuyên toán Nghệ An khóa 1968-1969 (8D) tại Trường cấp 3 Yên Thành 2. Khi lớp chuyên toán khóa 1968-1969 chuyển về Đô lương 2 thầy được Ty GD điều về làm Hiệu trưởng Trường bồi dưỡng giáo viên của tỉnh. Sau này thầy chuyển về Trường cấp 3 Nghĩa Đàn và là hiệu trưởng. Trước khi nghỉ hưu thày là Trưởng phòng GD huyện Nghĩa Đàn.Thầy đã qua đời. |
|
|
Sinh năm 1932 |
Chủ nhiệm lớp, chuyên trách dạy môn toán cho lớp chuyên toán Nghệ An niên khóa 1969-1970 (9C) và 1970-1971 (10C) tại Trường cấp 3 Đô Lương 2. Sau này thầy làm chủ nhiệm và dạy toán tiếp cho các khóa chuyên toán Nghệ An và tại Trường chuyên Phan Bội Châu, Nghệ An. Thầy đã qua đời. |
|
|
Sinh năm 1935 |
Phó chủ nhiệm lớp, chuyên trách dạy Nga văn cho lớp 8D chuyên toán Nghệ An tại Trường cấp 3 Yên Thành 2. Thầy cùng lớp chuyển về dạy Nga văn cho cả 3 lớp chuyên toán tại Trường cấp 3 Đô Lương 2 ở xã Lam Sơn, huyện Đô Lương và cũng là quê của thầy. Sau khi các lớp chuyên toán rời đi thầy vẫn ở lại dạy tại trường cho đến khi nghỉ hưu. Thầy đã qua đời. |
|
|
HỌC SINH |
|||
Sinh năm 1949 |
Lớp trưởng, quê ở xã Quỳnh Tiến, Quỳnh Lưu. Trước khi được tuyển chọn vào lớp chuyên toán học ở cấp 3 Quỳnh Lưu1.Tốt nghiệp cấp 3 được sang Liên Xô học đại học. Hoc tiếng Nga ở Đại học Tổng hợp Belorusia, Tốt nghiệp Đại học Bách khoa Leningrad ngành kỹ thuật công nghệ hàn kim loại. Về nước công tác ở ngành đóng tàu tại Hải Phòng. Về hưu sống ở thành phố Hải Phòng. |
||
2.Trần Trọng Thuy Sinh năm 1951 |
Quê ở xã Quỳnh Long, Quỳnh Lưu. Trước khi được tuyển chọn vào lớp chuyên toán học ở cấp 3 Quỳnh Lưu1. Tốt nghiệp cấp 3 vào học ở Trường đại học Bách khoa Hà Nội ngành Hóa công nghiệp. Tốt nghiệp đại học về công tác ở nhà máy hoa quả Nghĩa Đàn. Về hưu hiện nay sống ở thị xã Thái Hóa. |
||
3.Đậu Trung Kiên Sinh năm 1952 |
Tiến sỹ ngành cơ khí nông nghiệp. Quê ở xã Quỳnh Hồng, Quỳnh Lưu. Trước khi được tuyển chọn vào lớp chuyên toán học ở cấp 3 Quỳnh Lưu 1.Tốt nghiệp cấp 3 được sang Liên Xô học đại học. Hoc tiếng Nga ở Đại học Tổng hợp Tasken, Uzobeckistan. Tốt nghiệp Đại học Bách khoa Rostop-na-đô-nu ngành cơ khí nông nghiệp. Về nước công tác tại Viện NC Máy nông nghiệp cho đến khi nghỉ chế đọ. Về hưu sống ở TP Hà Nội. |
||
Sinh năm 1953 |
Quê ở xã Hưng Lộc, huyện Hưng Nguyên. Trước khi được tuyển chọn vào lớp chuyên toán học ở cấp 3 Vinh. Tốt nghiệp cấp 3 được sang Liên Xô học đại học. Hoc tiếng Nga ở Đại học Tổng hợp Tasken, Uzobeckistan. Tốt nghiệp Đại học Lái tàu biển Odexa ngành kỹ thuật máy tàu biển. Về nước công tác tại Học viện kỹ thuật quân sự. Sau năm 1990 chuyển sang công tác tại Sài Gòn Ship ở thành phố Hồ Chí Minh và Liên doanh dầu khí VietXopetro ở Vũng Tàu cho đến khi nghỉ chế độ.Về hưu sống ở TP Hồ Chí Minh. |
||
Sinh năm 1954 |
Quê ở xã Hưng Lợi, Hưng Nguyên. Trước khi được tuyển chọn vào lớp chuyên toán học ở cấp 3 Hưng Nguyên. Tốt nghiệp cấp 3 vào học ở Đại học Tổng hợp Hà Nội chuyên ngành Toán học. Tốt nghiệp đại học về làm công tác giảng dạy tại Trường đại học Tây Nguyên. Về hưu hiện nay sống ở thành phố Buôn Mê Thuột, tỉnh Đắc Lắc. |
||
Sinh năm 1954 |
Quê ở xã Hưng Đạo, huyện Hưng Nguyên. Trước khi được tuyển chọn vào lớp chuyên toán học ở Trường cấp 3 Hưng Nguyên. Tốt nghiệp cấp 3 vào học ở đại học Thương mại Hà Nội ngành Cơ khí thương mại. Tốt nghiệp đại học về công tác ở Tổng công ty Lương thực miền Bắc. Hiện nay sống ở thành phố Hà Nội. |
||
Sinh năm 1954 |
Quê ở xã Tràng Sơn, huyện Đô Lương. Trước khi được tuyển chọn vào lớp chuyên toán học ở Trường cấp 3 Đô Lương 1. Đến lớp 10 chuyển sang học lớp thường . Tốt nghiệp cấp 3 nhập ngũ 2 năm và ra quân vào học ở đại học Nông nghiệp 2, ngành chăn nuôi. Tốt nghiệp đại học về công tác ở Nông trường Trịnh Môn, Quỳnh Lưu. Hiện nay về hưu sống ở xã Đà Sơn, huyện Đô Lương |
||
Sinh năm 1952 |
Quê ở xã Hòa Sơn, huyện Đô Lương. Trước khi được tuyển chọn vào lớp chuyên toán học ở Trường cấp 3 Đô Lương 1. Tốt nghiệp cấp 3 nhập ngũ vào Nam chiến đấu. Sau giải phóng học và tốt nghiệp đại học Bách khoa TP HCM ngành cơ khí về công tác tại cơ quan tỉnh ủy và Hội đồng Nhân dân tỉnh Đồng Nai. Hiện nay về hưu sống ở thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai |
||
Sinh năm 1955 |
Quê ở xã Lam Sơn, huyện Đô Lương. Trước khi được tuyển chọn vào lớp chuyên toán học ở Trường cấp 3 Đô Lương 2. Đến lớp 10 chuyển sang học lớp thường . Tốt nghiệp cấp 3 nhập ngũ một thời gian ngắn và được cử sang CH DC Đức học tập. Tốt nghiệp Đại học ngành Ngân hàng Tài chính tại Học viện Ngân hàng, công tác tại Ngân hàng Nhà nước Trung ương và Ngân hàng Ngoại thương cho đến khi nghỉ hưu, hiện nay sinh sống tại TP Hà. |
||
Sinh năm 1954 |
Quê ở xã Lưu Sơn, huyện Đô Lương. Trước khi được tuyển chọn vào lớp chuyên toán học ở Trường cấp 3 Đô Lương 1. Tốt nghiệp cấp 3 được điều về học ở Đại học Kỹ thuật quân sự. Tốt nghiệp đại học về làm công tác giảng dạy và quản lý tại Trường Sỹ quan Thông tin thuộc Bộ QP. Tại thời điểm nghỉ chế độ mang quân hàm Thiếu tướng, hiệu trưởng Trường Sỹ quan Thông tin Nha Trang. Hiện nay về hưu sống ở thị trấn Lạt, huyện Tân Kỳ. |
||
Sinh năm 1954 |
Quê ở thành phố Huế.Trước khi được tuyển chọn vào lớp chuyên toán học ở Trường cấp 3 Đô Lương 1. Tốt nghiệp cấp 3 về học ở Đại học Kỹ thuật quân sự. Sau một năm học ở đây được cử đi học ở Liên Xô. Học dự bị tiếng Nga ở Trưởng đại học Tổng hợp Kiep. Học đại học Bách khoa Lvop ngành cơ khí chính xác Về nước công tác ở Viện Kỹ thuật quân sự, sau đó chuyển sang dân sự về Huế công tác ở Sở Ngoại vụ Thừa Thiên-Huế. Sau năm 1990 được cử sang công ty liên doanh chế biến gỗ có vốn đầu tư nước ngoài làm công tác quản lý. Hiện nay về hưu sống ở thành phố Huế. |
||
12.Nguyễn Xuân Tình Sinh năm 1954 |
Quê ở thi trấn Nam Đàn, huyện Nam Đàn. Trước khi được tuyển chọn vào lớp chuyên toán học ở Trường cấp 3 Nam Đàn. Do thiếu cân không đủ tiêu chuẩn học đại học ở nước ngoài.Tốt nghiệp cấp 3 nhập ngũ vào Nam chiến đấu và đã hy sinh. |
|
|
13.Trần Văn Đình Sinh năm 1953 |
Quê ở xã Nam Yên, huyện Nam Đàn. Trước khi được tuyển chọn vào lớp chuyên toán học ở Trường cấp 3 Nam Đàn1. Tốt nghiệp cấp 3 sang Liên Xô học đại học. Hoc tiếng Nga ở Đại học Bách khoa Tasken, Uzobeckistan. Tốt nghiệp Đại học Bách khoa Odexa ngành tin học. Về nước công tác tại Ban Cơ yếu trung ương thuộc Bộ Tổng tham mưu, Bộ Quốc phòng và đột ngột qua đời năm 2012 vì đột qụy trong lúc đang làm việc tại cơ quan, hàm đại tá. |
|
|
14.Chu Thanh Nam Sinh năm 1954 |
Quê ở xã Nam Liên, huyện Nam Đàn. Trước khi được tuyển chọn vào lớp chuyên toán học ở Trường cấp 3 Nam Đàn 1. Tốt nghiệp cấp 3 nhập ngũ, sau 2 năm được quân đội cử sang Tiệp Khắc học đại học ngành vũ khí, đạn. Về nước công tác trong quân đội và sau năm 2000 chuyển về công tác tại Sở Công Thương Thừa Thiên Huế cho đến khi nghỉ chế độ. Hiện nay nghỉ hưu sống ở thành phố Hồ Chí Minh |
||
15.Phan Xuân Hóa Sinh năm 1954 |
Quê ở xã Nam Phúc, huyện Nam Đàn. Trước khi được tuyển chọn vào lớp chuyên toán học ở Trường cấp 3 Nam Đàn 2. Cuối lớp 10 bị tai nạn phải nằm Viện điều trị một thời gian dài. Năm sau tiếp tục học lại lớp 10 chuyên toán. Tốt nghiệp cấp 3 vào học trường đại học Tài chính. Tốt nghiệp đại học về công tác tại Ngân hàng Đầu tư Phát triển cho đến khi nghỉ chế độ. Hiện nay nghỉ hưu sống ở thành phố Vinh. |
||
16.Tô Hồng Hải Sinh năm 1953 |
Quê ở xã Minh Thành, huyện Yên Thành. Trước khi được tuyển chọn vào lớp chuyên toán học ở Trường cấp 3 Yên Thành 2. Tốt nghiệp cấp 3 được sang Liên Xô học đại học. Hoc tiếng Nga ở Đại học Tổng hợp Quốc gia Bacu, Azecbaidan. Tốt nghiệp Học viện Lâm nghiệp Leningrad.Về nước công tác tại Sở Lâm nghiệp Nghệ An. Công tác tại tỉnh ủy Nghệ An cho đến khi nghỉ chế độ. Về hưu sống ở TP Vinh. |
||
17. Phan Văn Nồm Sinh năm 1949 |
Quê ở xã Diễn Thái, huyện Diễn Châu. Trước khi được tuyển chọn vào lớp chuyên toán học ở Trường cấp 3 Yên Thành 2. Tốt nghiệp cấp 3 được sang Hungari học đại học. Hoc tiếng Hung ở học viện dự bị quốc tế Budapest. Sau dự bị hoc ở trường CN lái Đầu máy Diesel Sopron. Về nước công tác tại Xí nghiệp Đầu máy Đà Nẵng cho đến khi nghỉ chế độ.Về hưu sống tại thành phố Đà Nẵng. |
||
18.Nguyễn Sỹ Thoan Sinh năm 1953 |
Quê ở xã Trung Thành, huyện Yên Thành. Trước khi được tuyển chọn vào lớp chuyên toán học ở Trường cấp 3 Yên Thành 2. Tốt nghiệp cấp 3 được sang Liên Xô học đại học. Hoc tiếng Nga ở Đại học Tổng hợp Belorusia, Minsk. Tốt nghiệp Bách khoa Kharcop ngành Đúc kim loại.Về nước công tác tại Viên kỹ thuật giao thông.Sau đó sang quản lý hợp tác lao động ở thành phố Archiomop, Liên Xô. Trở về nước sống tại thành phố Vinh cho đến khi qua đời. |
|
|
19.Nguyễn Cảnh Dũng Sinh năm 1954 |
Quê ở xã Xuân Thành, huyện Yên Thành. Trước khi được tuyển chọn vào lớp chuyên toán học ở Trường cấp 3 Yên Thành 2. Tốt nghiệp cấp 3 được sang Hungari học đại học. Hoc tiếng Hung ở học viện dự bị quóc té Budapest. Sau dư bị học tại Khoa Giao thông, Ttrường Đại hoc kỹ thuật Budapest. Năm 1975 về nước học lại ở Đại học Giao thông sắt bộ Hà nội cho đến năm 1980 tốt nghiệp về công tác tại Xí nghiệp vân tải ô tô 16 Bộ GT (Sau này Công ty vận tải ô tô số 5). Về hưu sống ở quê là xã Xuân Thành. |
||
20- Ngô Sỹ Xinh Sinh năm 1953 |
Quê ở xã Diễn Xuân, huyên Diễn Châu. Trước khi được tuyển chọn vào lớp chuyên toán học ở Trường cấp 3 Diễn Châu 1. Tốt nghiệp cấp 3 được sang Liên Xô học đại học. Hoc tiếng Nga ở Đại học Tổng hợp Bacu, Azecbaidan. Tốt nghiệp Đại học Dầu khí Bacu. Về nước công tác trong ngành Dầu khí. Công tác tại Liên doanh Dầu khí Vietxopetro từ khi bắt đầu thành lập đến khi nghỉ chế độ. Về hưu sống tại thành phố Vũng Tàu. |
||
21-Trần Xuân Cầu Sinh năm 1954 |
Phó giáo sư, tiến sỹ kinh tế.Quê ở xã Nghi Phương, Nghi Lộc. Trước khi được tuyển chọn vào lớp chuyên toán học ở Trường cấp 3 Yên Thành 2. Tốt nghiệp cấp 3 được sang Liên Xô học đại học. Hoc tiếng Nga ở Đại học Tổng hợp Tasken, Uzbeckistan. Tốt nghiệp Đại học Kinh tế Leningrad. Về nước công tác giảng day tại Trường Đại học Kinh tế Quốc dân Hà Nội cho đến khi nghỉ chế độ. Hiện này về hưu sống tại TP Hà Nội. |
||
22- Đặng Xuân Luyện Sinh năm 1953 |
Quê ở xã Diễn Thắng, Diễn Châu. Trước khi được tuyển chọn vào lớp chuyên toán học ở Trường cấp 3 Diễn Châu 1. Tốt nghiệp cấp 3 được sang Liên Xô học đại học. Hoc tiếng Nga ở ĐH Tổng hợp QG Belorusia. Tốt nghiệp Đại học Bách khoa Minsk ngành nhiệt năng. Về nước công tác giảng day tại Trường Đại học Bách khoa Hà Nội. Cuối những năm 1980 sang Liên Xô quản lý hợp tác lao động ở thành phố Kharcop và ở đó đến khi xảy ra xung đột Nga-Ukraine thì về nước. Hiện này về hưu sống tại TP Hà Nội. |
||
23- Trương Đắc Cháu Sinh năm 1954 |
Quê ở xã Nghi Hòa, Nghi Lộc. Trước khi được tuyển chọn vào lớp chuyên toán học ở Trường cấp 3 Nghi Lộc1. Tốt nghiệp cấp 3 vào học hết năm thứ nhất tại Đại học Công An Hà Nội thì được cử sang Liên Xô học đại học. Hoc tiếng Nga ở Đại học Tổng hợp QG Belorusia.Tốt nghiệp HV Lâm nghiệp Leningrad. Về nước công tác tại Quân khu 4 với cấp hàm đai tá cho đến khi nghỉ chế độ. Về hưu sống tại TP Vinh. |
||
24. Nguyễn Xuân Hùng Sinh năm 1953 |
Quê ở xã Thanh Chung (nay là xã Phong Thịnh), huyện Thanh Chương. Trước khi được tuyển chọn vào lớp chuyên toán học ở Trường cấp 3 Thanh Chương 2. Tốt nghiệp cấp 3 vào học tại Đại học Nông nghiệp 2, ngành chăn nuôi thú y. Tốt nghiệp đại học về công tác giảng dạy tại Đại học Nông nghiêp An Giang cho đến khi nghỉ chế độ. Hiện nay về hưu sống ở thành phố Bảo Lộc, tỉnh Lâm Đồng. |
||
25.Trương Văn Trường Sinh năm 1954 |
Quê ở xã Diễn Trường, Diễn Châu. Trước khi được tuyển chọn vào lớp chuyên toán học ở Trường cấp 3 Diễn Châu 2. Vì lý do sức khỏe (chỉ nặng 38 kg) nên không được xét duyệt đi học nước ngoài. Tốt nghiệp cấp 3 đỗ vào khoa Toán Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội. Do thi được điểm cao (28,5 đ.) nên được chuyển sang học tiếng Đức tại khoa dự bị của Trường ĐH Ngoại ngữ (để đi Đức) nhưng lại được Bộ ĐH tuyển chọn sang Liên Xô học đại học. Hoc tiếng Nga ở Đại học Tổng hợp QG Belorusia. Tốt nghiệp Đại học Bách khoa Minsk chuyên ngành Nhiệt luyện.Về nước công tác giảng dạy tại Đại học Bách khoa Hồ Chí Minh cho đến khi nghỉ chế độ. Về hưu sống ở thành phố Hồ Chí Minh. |
||
26.Phan Độc Lập Sinh năm 1954 |
Tiến sỹ kỹ thuật ngành luyện kim. Quê ở xã Quỳnh Bá, huyện Quỳnh Lưu. Trước khi được tuyển chọn vào lớp chuyên toán học ở Trường cấp 3 Tân Kỳ. Tốt nghiệp cấp 3 sang Liên Xô học đại học. Hoc tiếng Nga ở Đại học Tổng hợp Quốc gia Belorusia. Tốt nghiệp Đại học Bách khoa Donetsk ngành Luyện kim.Về nước công tác tại Viện Luyện kim đen và Tổng công ty Thép Việt Nam cho đến khi nghỉ chế độ. Về hưu sống ở TP Hà Nội. |
||
27.Lê Thị Thu Hồng Sinh năm 1953 |
Quê ở xã Hưng Đông, nay là phường Đông Vinh, TP Vinh. Trước khi được tuyển chọn vào lớp chuyên toán học ở Trường cấp 3 Nghĩa Đàn. Tốt nghiệp cấp 3 sang Liên Xô học đại học. Hoc tiếng Nga ở Đại học Tổng hợp Quốc gia Erevan, Acmenia. Tốt nghiệp Đại học Nông nghiệp Moscova, chuyên ngành kinh tế nông nghiệp. Về nước lần lượt trải qua công tác tại Viện Nghiên cứu Kinh tế Nông nghiệp, Cục Dự trữ Quốc gia, Tổng công ty Chè Việt Nam và 7 năm trước khi nghỉ chế độ trúng tuyển làm kế toán trưởng cho công ty con tại VN cuả Tập đoàn đa quốc gia Hyder consulting có trụ sở chính ở Anh. Về hưu sống ở thành phố Hà Nội. |
- NHỮNG KÝ ỨC KHÓ QUÊN
LỚP 8D – CẤP 3 YÊN THÀNH 2
Thầy Lê Anh Tề là thầy dạy toán đồng thời là thầy chủ nhiệm lớp 8D.Thầy dong dỏng cao, hơi gầy, trắng trẻo và khá đẹp trai, tuổi độ khoảng gần 40, tính thầy hiền lành. Thầy đối xử với chúng tôi rất tốt, lo toan từ chỗ ăn, chỗ ở cho chúng tôi.
Thầy chỉ dạy cho chúng tôi một năm nhưng đã để lại một ký ức không bao giờ phai nhạt về người thầy mẫu mực, về sự tận tuỵ với nghề dạy và tình thương yêu đối với học trò, nhân cách trong sáng mà chúng tôi giữ mãi trong ký ức.
Khi chúng tôi chuyển lên học lớp 9 ở trường cấp 3 Đô Lương 2 thì thầy được chuyển về làm Hiệu trưởng Trường bồi dưỡng giáo viên của tỉnh, đóng tại huyện Diễn Châu.
Năm 1971, sau khi thi đại học (hồi ấy thi tập trung toàn tỉnh, tổ chức ở huyện Diễn Châu), một nhóm trong chúng tôi đến thăm thầy, thầy rất vui mừng và chúc cho chúng tôi sẽ có một tương lai tươi đẹp chờ đón. Đấy là lần gặp cuối thời học sinh, cho tới năm 2001 (sau 30 năm) mới gặp lại thầy trong lần họp lớp đầu tiên của chúng tôi, được tổ chức tại thành phố Vinh quê hương.
Thầy là người dõi theo từng bước tiến bộ trong đời của mỗi chúng tôi, và chúng tôi cũng luôn nhớ về người thầy rất đỗi thân thương và đáng kính trọng ấy.
Yên thành là mẹ là cha
Muốn ăn cơm trắng thì ra Yên Thành
Đó là câu ca dao mà chúng tôi thường xuyên nghe các ông các bà chủ nhà Yên thành nói , hát đối với nhau.
Tất cả chúng tôi ở trọ trong nhà dân thuộc xóm Trại Xanh. Người dân ở đây rất tốt, chúng tôi được ăn cùng với họ. Chủ nhà ăn gì chúng tôi ăn thứ đó, cơm gạo mới xát ăn thơm ngon, ngậy mùi gạo mới, rau mới hái trong vườn, thức ăn họ kiếm được gì chúng tôi ăn nấy.
Tiêu chuẩn của mỗi học sinh lớp toán đặc biệt được nhận 9,5 đồng mỗi tháng, 15 kg gạo (hoặc quy ra gạo mà nhận loại lương thực khác). Tiền mua gạo nằm trong 9,5 đồng, gạo hồi đó là 4 hào một kg, riêng tiền gạo đã là hết 6 đồng. Chúng tôi chuyển tiêu chuẩn của mình cho họ. Hình như ngay cả việc này chúng tôi cũng không phải làm gì cả mà có nhà trường làm hộ.Sau này dù có đi đâu chúng tôi vẫn luôn nhớ tới hương vị những bữa cơm ngon lành, dân dã trong nhà dân ở xóm Trại xanh, Bắc thành , Nghệ an. Để kỷ niệm năm học này bạn Phan Độc Lập đã sáng tác một bài thơ đầy cảm xúc, phản anh khá đầy đủ cuộc sống năm đầu xa nhà của chúng tôi.
CHUYỂN TRƯỜNG
Lớp tôi vừa chuyển tới Đô Lương,
Ba lô, chăn, chiếu lại lên đường,
Xa thầy, xa bạn, xa trường cũ,
Cất bước mang theo nỗi nhớ thương.
Nhớ từng buổi học thầy Tề dạy,
Toán hình, toán đại giải ra sao,
Nhớ khi gặp phải bài toán khó,
Vò đầu, bóp trán mãi chẳng ra.
Nhớ lúc mải mê trên sân bóng,
Thầy trò nhầm lẫn gọi mày, tao.
Nhớ buổi chia tay đầy bịn rịn,
Tình nghĩa thầy trò quyến luyến sao.
Nhớ con đường nhỏ men chân núi,
Từ xóm Trại Xanh đến giảng đường.
Nhớ từng giếng nước bên bờ suối,
Một buổi vài lần lấy nước ăn.
Nhớ bữa cơm thường cùng gia chủ,
Gạo trắng chiêm trăng dậy mùi thơm,
Bữa cơm đạm bạc sao ngon thế,
Vài ngọn khoai lang, nhút, quả cà.
Nhớ những đêm đông dài rét buốt,
Chui vào bao tải, đắp thêm chăn .
Nhờ từng buổi tối xua muỗi đốt,
Bên ngọn đèn dầu, giải toán căn.
Nhớ nước nông giang kênh thủy lợi,
Mỗi tuần đôi buổi tắm vệ sinh.
Nhớ khi dạy thêm con gia chủ,
Được bồi dưỡng bằng bánh sắn tinh.
Nhớ cánh đồng vàng, mùa lúa chín,
Rặng tre lảnh lót tiếng chim ca,
Rừng cây xanh biếc rì rào gió,
Tình cảm người dân, quý vô cùng.
Nhớ cô thôn nữ nhà hàng xóm,
Mỗi buổi học về lại ngó sang,
Lớp tám xa nhà, mười lăm tuổi,
Đã biết xao lòng, dạ xốn xang.
LỚP 9C – CẤP 3 ĐÔ LƯƠNG 2
Lên lớp chín, lớp toán đặc biệt chuyển về trường cấp ba Đô Lương 2, đóng tại xã Lam sơn huyện Đô lương gọi là lớp 9C. Đầu năm học các bạn tập trung tại trường cấp 3 Yên thành 2 rồi lại hành quân đi bộ tới trường cấp ba Đô Lương 2. Tôi cũng không nhớ tại sao lại có chuyện đi vòng vo như vậy mà không thông báo cho học sinh đi thẳng từ nhà tới trường mới.
Vùng Bạch Ngọc gồm ba xã Bồi Sơn, Lam Sơn và Ngọc sơn hợp lại hay còn gọi Ngọc Lam Bồi. Đây là một vùng đất trù phú, có từ lâu đời, những mái nhà nấp sau những lùm cây ăn quả lâu năm làm nên một vùng xanh ngát, trải dài ven bờ sông Lam. Đối diện với vùng Bạch Ngọc phía bên kia sông Lam là ba xã Nam Sơn, Bắc Sơn và Đặng Sơn, gọi tắt là Nam Bắc Đặng. Không biết do thổ nhưỡng hay cái gì tạo nên mà các cô gái vùng này nổi tiếng là xinh đẹp và đảm đang. Con em hai vùng này cùng học trường cấp ba Đô Lương 2 cả.
Lên lớp chín chúng tôi học thầy Nguyễn Duy Tịnh. Thầy người Quảng Bình, tầm tuổi hơn 40, người gầy, da đen đỏ, hai tai to. Thầy rất hay cười. Năm trước thầy vừa kết thúc một khóa chuyên toán nghe nói học ở Quỳnh lưu hay Thanh Chương gì đó. Nay thầy được phân công dạy toán và là chủ nhiệm lớp chúng tôi. Thầy mang cả gia đình đi theo thầy lên vùng Lam sơn ở. Nhà thầy ở vùng gần Ngọc Sơn, vợ thầy khá trẻ đẹp, thầy có một đàn con khá đông mà chúng lại còn bé. Bà mẹ thầy hay bán bánh đa nướng ở chợ Lam sơn.
Bắt đầu từ năm 1969 ba lớp chuyên toán 8, 9, 10 học tập trung tại trường cấp ba Đô lương 2 đóng tại xã Lam sơn Huyện Đô lương. Khác với hồi ở Yên Thành, chúng tôi ăn tập trung tại bếp tập đoàn do hai chị cấp dưỡng nấu. Mỗi tháng chúng tôi được tiêu chuẩn bao nhiêu cân gạo, bao nhiêu cân mì bột, tổng cộng các loại này là 15 kg cả thảy. Các lớp cử ra người quản lý cứ sáng ra cân cho các chị cấp dưỡng nấu.
Tập đoàn bữa thì nấu cơm bữa thì luộc hấp mì. Cơm trắng nấu lên rời rạc, nở to đùng. Thức ăn thì có gì ăn nấy phần lớn là rau muống nấu canh, có hôm thì dọc mùng nấu canh. Trong nồi canh đầy, rau loáng thoáng, còn nước thì chan thoải mái. Do mỳ luộc không có bột nở nên cứng đét, húp với canh suông, nhưng chúng tôi đang tuổi lớn vẫn ăn hết suất ngon lành, nếu có thêm 2 hay 3 cái bánh như thế nữa chắc cũng ăn hết vèo. Thời gian này thịt là thứ quý hiếm nên chúng tôi không nhớ là đã từng được ăn thịt hay không. Có bạn còn nhớ, nói tiêu chuẩn thịt của chúng tôi được thay thế bằng cách nhận 1,2 kg mỡ hóa học.Vì chế độ ăn uống thiếu chất như vậy mà chúng tôi lớn lên gầy gò và nhỏ bé. Có bạn hết lớp 10 (hệ phổ thông 10/10) mà cân nặng không đủ 40 kg để đủ tiêu chuẩn đi học đại học ở nước ngoài.
Mặc dù kham khổ và thiếu thốn nhưng không ai bỏ lớp về nhà cả, ai cũng ham học hỏi, một số bạn nhờ học chuyên toán mà có khả năng được học lên chứ ở nhà chắc sẽ phải nghỉ học vì nhà nghèo, gia đình không chu cấp nổi.
Ở Lam sơn chúng tôi tắm giặt ở sông Lam. Đường xuống bến sông phải đi qua một bãi dâu xanh tốt. Gánh nước sông về ăn là công việc thường xuyên mà chúng tôi có thể giúp chủ nhà. Sức vóc nhỏ bé so với đôi thùng đựng nước nên chúng tôi đã phải cố gắng nhiều mỗi khi đi lên dốc, lên được đỉnh dốc là phải dừng nghỉ đê thở. Đến bây giờ nhắc tới việc ngày xưa gánh nước sông Lam có bạn vẫn còn cảm giác sợ hãi.
Thanh niên mới lớn đang ở độ tuổi trưởng thành thường năng động, hoạt bát. Ai cũng có tính cạnh tranh hơn thua, hiếu thắng, ai cũng muốn thể hiện bản thân mình, nhất là học sinh chuyên toán thường hay ảo tưởng mình giỏi, mình quan trọng, ai cũng đang chú ý đến mình. Có bạn dựa vào một bất đẳng thức có sẵn thêm bớt, biến đổi mội hồi rồi đem ra đố các bạn khác xem có giải được không, làm rất mất thì giờ của người khác.
Chuyển từ trường cũ sang ngôi trường mới bạn Lập lại có cảm xúc để làm thêm một bài thơ. Thầy Tuệ chủ nhiệm và dạy toán lớp 10 C trên chúng tôi cũng hay làm thơ lắm.
TRƯỜNG MỚI
Trường mới đây rồi, lớp chúng tôi,
Nhà trường làm sẵn, sát chân đồi,
Một cụm chữ U ba lớp chín,
Nhà khung tre, gỗ, mái lợp tranh.
***
Bỡ ngỡ làm sao buổi ban đầu,
Tìm nhà để trọ, có dễ đâu,
Thầy chủ nhiệm không theo với lớp,
Thầy mới về, chưa biết ra sao,
***
Với ba lớp toán của hệ chuyên,
Học sinh khắp tỉnh, chẳng phải hiền,
Hiệu trưởng nhà trường thêm vất vả,
Đã lo dạy học, lại lo tiền.
***
Năm trước cơm ăn chẳng phải lo,
Giờ cơm tập thể chẳng đủ no,
Trải qua vài tháng rồi cũng ổn,
Bột mỳ, rau muống, hạt bo bo.
***
Học bổng Ty cho được mười đồng, (Ty Giáo dục)
Tám đồng bố, mẹ cấp cho không,
Thế là đủ sống trong một tháng,
Chăm chỉ lao vào học thật thông.
LỚP 10C – CẤP 3 ĐÔ LƯƠNG 2
Lên lớp 10 sỹ số lớp chúng tôi bị giảm đi 2 bạn gái là Hoa và Ba. Lớp chỉ còn có 25 bạn. Chúng tôi phải chuyên tâm vào học hành để trải qua các kỳ thi liên tục. Chuẩn bị cho các đợt thi toán tuyển chọn cho kỳ thi học sinh giỏi toán toàn miền bắc, chuẩn bị kiến thức để thi tốt nghiệp hết lớp 10, và kỳ thi cuối cùng là thi vào đại học. Kết quả thi hoc sinh giỏi toán miền Bắc năm học này có bạn Phan Trung Bình đạt giải khuyến khích.
Thi đại học năm đó có mã để thi đi học nước ngoài là QR, địa điểm thi là xã Diễn Hồng, huyện Diễn Châu. Lớp chúng tôi đậu đi học ở nước ngoài gần hết, chỉ còn lại khoảng 1/3 vào các trường Đại học trong nước hoặc nhập ngũ do gia đình chưa có ai đi bộ đội. Trong số đó có bạn Nguyễn Xuân Tình. Bạn nhập ngũ vào Nam chiến dấu và hy sinh ở chiến trường ở tuổi thanh xuân tươi đẹp nhất, chưa kịp có cơ hội hẹn hò để có một mối tình. Cả lớp rất thương nhớ bạn Tình, lần họp lớp nào cũng nhắc tới bạn ấy.
Hầu hết các bạn du học ở nước ngoài đã tốt nghiệp đại học với bằng đỏ, về nước làm việc với tinh thần trách nhiệm cao cùng hoài bão muốn cống hiến kiến thức và tuổi trẻ để dựng xây đất nước sau nhiều năm chiến tranh khốc liệt.
Ngoài bạn Xuân Tình đã hy sinh, các bạn đi bộ đội còn lại trở về đời thường đều tiếp tục vào học đại học ở trong nước. Bạn Đoàn Hữu Ý sau khi tốt nghiệp lớp 10 không được đi thi đại học vì thành phần gia đình, bạn đã làm công nhân mấy năm “để cân bằng lý lịch gia đình” (như lời bạn ấy nói) rồi đi thi đại học và đỗ vào khoa toán Đại học tổng hợp Hà nội. Sau này bạn về dạy toán tại Đại học Tây Nguyên ở Ban Mê Thuột.
Không biết học sinh các lớp chuyên toán trên và dưới khóa chúng tôi có tình cảm với thầy dạy toán Nguyễn Duy Tịnh ra sao, nhưng thực lòng mà nói dù chỉ có hai năm được thầy làm chủ nhiệm, quan hệ của chúng tôi gắn bó với thầy như trong một gia đình vậy. Có thể ngoài việc chúng tôi vốn hiền lành, chăm học như lớp trẻ hồi đó ra thì sự khác biệt còn ở chỗ đã có được một năm ở trọ với các gia đình nông dân thật thà, chân chất ở Yên Thành và chịu ảnh hưởng của một năm học sâu đậm tình thầy trò với thầy Tề hồi lớp 8 và không muốn thay đổi thầy chủ nhiệm nào khác nữa. Thầy Tịnh khi nào cũng khuyên nhủ nhỏ nhẹ, nhất là vào các dịp thi học sinh giỏi, hay thi tốt nghiệp.Kỷ niệm gây ấn tượng nhất là cuối năm lớp 10, sau khi thi tốt nghiệp xong, thầy Tịnh làm thịt con lợn mà gia đình thầy nuôi để liên hoan chia tay với lớp chúng tôi.
Khi chúng tôi đi thi đại học khối QR ở Diễn Phong, Diễn Châu, thầy đã đến tận nơi động viên khích lệ. Thầy ngồi ngoài sân lo lắng đợi chúng tôi thi. Thầy quan tâm hỏi han từng đứa xem đã làm bài như thế nào. Thi xong đại học,thầy Tịnh và chúng tôi cùng đi chơi biển, đến thăm nhà các bạn ở Quỳnh Lưu rất vui vẻ và ấm áp tình cảm thầy trò trước những tháng ngày sắp xa nhau mãi mãi. Sau này khi đã du học ở nước ngoài, Thầy Tịnh là một trong những người đầu tiên mà chúng tôi viết thư về thăm hỏi. Những bạn có cơ hội về phép thăm nhà sau 3 năm hầu hết đều cố gắng đến nhà riêng thăm gia đình thầy.
Sau này ra công tác, mỗi thành viên lớp chúng tôi dù ở cương vị nào, ở phương trời nào nếu có dịp cũng luôn nhớ về thăm 2 người thầy đã từng gắn bó với mình. Những lần tổ chức gặp mặt lớp cũng luôn mời cho bằng được các thầy tham dự. Chỉ tiếc rằng thầy Lê Anh Tề đã ra đi qúa sớm, chỉ được hưởng chế độ hưu trí chưa đến 10 năm. Thầy Tịnh sống thọ đến gần tuổi 90. Mỗi lần gặp nhau ở Vinh, chúng tôi lại tổ chức đến thăm gia đình 2 thầy, với thầy Tịnh ở ngay Vinh và với thầy Tề ở Nghĩa Đàn để thắp cho các thầy vài nén nhang tưởng nhớ.