SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO NGHỆ AN

Trường THPT Chuyên Phan Bội Châu

NHÂN VĂN - HIỆN ĐẠI - THÂN THIỆN

Trang Văn Thơ Gửi Mái Trường: Tình Bạn, Thầy Cô Và Kỷ Niệm

  • Trang chủ
  • Trang Văn Thơ Gửi Mái Trường: Tình Bạn, Thầy Cô Và Kỷ Niệm
Shape Image One
Trang Văn Thơ Gửi Mái Trường: Tình Bạn, Thầy Cô Và Kỷ Niệm

PHẦN III. TRƯỜNG PHAN TRONG TÔI LÀ…

TRẦN THỊ AN [1]

NHỮNG TRANG VIẾT CỦA THẦY TÔI

Có lẽ trong cuộc đời mỗi con người, kí ức về tuổi học trò luôn là những kỉ niệm sâu đậm nhất. Với chúng tôi, những học sinh chuyên Văn khóa 1978 – 1981, những kỉ niệm đó gắn với thầy chủ nhiệm Trần Hữu Dinh. Trong số các học trò của thầy, tôi có may mắn là người duy nhất theo đuổi nghề nghiên cứu và giảng dạy Văn học, có lẽ đó là cái “duyên” để tôi được thay mặt các bạn đồng lứa được nhận trách nhiệm viết cảm tưởng về tuyển tập của thầy, sau 30 năm rời ghế nhà trường.

Là một nhà giáo lâu năm, với gần nửa cuộc đời gắn bó với nghề dạy học, thầy Trần Hữu Dinh có biết bao kỉ niệm vui buồn với nghề. Có thể thấy rõ điều này qua những dòng thơ thầy viết cho đồng nghiệp, cho học trò, cho người bạn đời, cho con gái và cho chính mình. Chân dung nhà giáo hiện lên trong thơ thầy với biết bao điều giản dị. Trong nỗi nhớ của người bạn đời là nỗi mong nhớ chồng về, mà nhà giáo thì hết chấm thi, đến dạy bổ túc rồi lại hướng dẫn trại hè; là cảm xúc của người thầy khi nhận được phong thư của người học trò xa xứ, là nỗi vui mừng của người thầy khi đến thăm cô học trò đã tới tuổi cổ lai hi…

Những dòng thơ, những trang văn của thầy gắn với biết bao kỉ niệm với bạn đồng môn, cái thuở còn trẻ lắm (Thuở ấy, chúng mình còn trẻ lắm/ Đôi chim xanh về đậu một cành xanh) với biết bao khát vọng và rất nhiều đắm say, lúng liếng. Tôi thấy ở đây một con người khác với con người mà chúng tôi được thấy trên bục giảng. Đến tuổi này, khi đã gắn bó với nghề dạy học hơn 20 năm, tôi mới hiểu ra một điều thật giản dị: Là nhà giáo, thầy cũng là con người, con người bình dị với biết bao xúc cảm yêu ghét thông thường, biết bao rung động với cảnh, với người, với quê hương. Cái chất nhân văn đó, chúng ta sẽ thấy rõ ở mảng văn thầy ghi lại, cảm xúc và sự nhìn nhận của mình về bạn bè, người thân và cả những người quen mà sự tiếp xúc với họ, đôi khi gây nên ở thầy những nỗi buồn thăm thẳm về nhân tình thế thái. Đó là nỗi cô đơn của một gốc cây già còn lại với thời gian giữa bao chảy trôi của dòng đời xuôi ngược, là chút tâm trạng chua chát của người suốt đời tận tâm với nghề nhưng cảm thấy mình thật “ngu ngơ” và vì thế bỗng chốc chợt thấy mình “trắng tay” trước cơn lốc của nhịp sống thị trường. Đó còn là nỗi thất vọng khi gặp lại người bạn nghèo khó thuở thiếu thời đến khi thành đạt thì đã thành người vô cảm. Đó là phút “bất chợt” dừng lại giữa cái hối hả của cuộc sống để ngẫm nghĩ về những chiêm nghiệm trong đời, về những điều tưởng hiển nhiên như lá rụng về cội, như cầu vồng hiện sau mưa rồi sẽ tan nhanh khi trời quang… Nhưng đậm nét hơn tất cả trong các trang văn, các dòng thơ của thầy vẫn là một tấm lòng đôn hậu của con người tình nghĩa với những cảm xúc rưng rưng về mẹ, là lòng bao dung của người thầy đối với học sinh, là biết bao thương cảm trong tiếng khóc thương của người cha cho đứa con dâu tài hoa mà yểu mệnh, là người chồng luôn dành một tình cảm đầy xót xa cho người vợ tảo tần mà suốt đời thầy vẫn cảm thấy chưa dành cho cô được “trọn một bài thơ”. Chính “chất người” của thầy đã in dấu vào tâm hồn trong sáng của các thế hệ học trò, và vì thế, ấn tượng sâu đậm đó đã đi theo các thế hệ học trò của thầy suốt cuộc đời.

Quá trình tìm kiếm không ngừng các giá trị đích thực của văn chương và sự lao động miệt mài của thầy đã thắp lên ngọn lửa đam mê với văn chương cho biết bao lứa học trò chuyên Văn của Trường Phan Bội Châu và nhờ đó, họ đã bước vào đời với hành trang quý giá. Rất nhiều trong số đó đã gắn bó với nghề dạy học, và thật tình cờ, hầu hết đều dạy ở các lớp chuyên Văn của các tỉnh, thành phố và đều là những giáo viên dạy giỏi. Khi đứng trên bục giảng, điều quan trọng đối với các giáo viên dạy Văn là truyền cho các em học sinh lòng yêu vẻ đẹp của văn chương, yêu cái sức cuốn hút nằm im lìm đằng sau những con chữ. Và trong các thế hệ học trò của thầy đang đứng trong đội ngũ các nhà giáo hôm nay, hẳn không ai quên những giờ lên lớp miệt mài và tâm huyết ở cái thời buổi không có một chút thù lao của thầy trên mảnh đất xứ Nghệ hết gió Lào khô rang lại đến gió bấc rét cóng cách đây cả mấy chục năm.

Trong không khí của ngày hiến chương nhà giáo hôm nay, tôi muốn mượn một câu thơ trong bài Trở về nguồn suối của thầy để kết cho bài viết nhỏ này như là một sự đồng cảm với hồn thơ của thầy và như là một lời tri ân của nhiều “khách sang sông” đối với “người chèo đò cần mẫn” suốt cuộc đời mình:

Nếu không có suối trong ngần ấy

Đâu có tràng giang hợp đại dương.

Hà Nội, những ngày tháng 11 năm 2011

NGUYỄN THỊ CÚC[2]*

THẦY LÊ ĐỨC KIÊM

“Lịch sử là gì hở e…e….em?”. “Lịch sử là một bộ môn khoa học nghiên cứu về quá khứ, ghi nhận lại những sự kiện tiêu biểu trong từng giai đoạn phát triển của đất nước, con người. Nguyên tắc tối thượng của lịch sử là phản ánh chân thực các sự kiện đã diễn ra trong quá khứ bằng cách nghiên cứu các dữ liệu có thật, xuất hiện từ hoàn cảnh cụ thể”.

“Nhớ chưa e..e…em?”. “Lịch sử có huyền sử và chính sử. Hãy phân biệt nha em!”. “Lạc Long Quân và Âu Cơ sinh ra 100 trứng là truyền thuyết còn hàng trăm lần dân tộc Việt chiến thắng ngoại xâm để giữ gìn toàn vẹn lãnh thổ là sự thật, là chính sử”.

“Chính trị là thủ đoạn. Chiến tranh là những cơn sốt của lịch sử. Hiểu  chưa e…e…em?”. Chúng tôi chăm chú lắng nghe và tranh thủ chép vào vở các lời giảng của thầy.

Dáng thầy thanh mảnh, giọng thầy trong trẻo, ngọt ngào, mỗi lần giảng xong một sự kiện lịch sử, thầy lại hỏi chúng tôi: “Hiểu chưa e…e…em?”.  “Ta học tiếp nha e…e..em?”. Cái từ “Em” cuối cùng kéo dài tha thiết khiến cho cả những học sinh bướng bỉnh nhất vẫn cảm thấy mềm lòng, im lặng lắng nghe như nuốt lấy từng lời thầy giảng.

Chúng tôi vào học trường năng khiếu chuyên văn chuyên toán Phan Bội Châu năm học 1981-1982. Trường mới  xây dựng xong, nhưng chỉ có mái trường là mới còn tất cả đều cũ kỹ và thiếu thốn. Được xây dựng trên bãi tha ma thời Pháp thuộc, hai dãy phòng học là cao ráo còn xung quanh trũng xuống, cỏ dại mọc um tùm. Phòng học của chúng tôi cũng là nơi để các học sinh từ mọi miền quê Nghệ An, Hà Tĩnh đã được chọn lọc đến học và sống nội trú. Phía trên là bục giảng, ở giữa phòng là bàn ghế ngồi học và cuối phòng là những tấm phản để  nằm ngủ. Đói ăn, thiếu mặc, thiếu đủ thứ nhưng chúng tôi còn được ở trong căn phòng cao ráo, tường gạch, mái ngói, nền xi măng còn các thầy cô giáo ở trong dãy nhà tranh vách đất, nền đất. Mùa hạ nắng rát người cùng từng đợt gió Lào thổi cong ngọn cỏ, mùa đông rét thấu xương cùng những đợt mưa dầm dề kéo dài, lạnh buốt thấu xương. Thầy cô giáo và học sinh chúng tôi đã quen với khí hậu khắc nghiệt của miền Trung nên có thể chịu đựng. Trước đây thầy là giảng viên khoa lịch sử trường Đại học Tổng hợp  Hà Nội. Được sự phân công của bộ giáo dục, thầy về  trường Phan Bội Châu dạy chúng tôi môn lịch sử.

Giữa những âm thanh trọ trẹ và chắc nặng của tiếng miền Trung xứ Nghệ, giọng thầy cất lên, trong trẻo, nhẹ nhàng, ngọt lịm. Chúng tôi nghe thầy giảng, tưởng nghe những diễn viên diễn thuyết trong phim.

Lương giáo viên cấp 3 dĩ nhiên là thấp hơn lương giảng viên đại học. Hồi đó, không có khái niệm dạy thêm, với đồng lương ít ỏi của nhà giáo, thầy dạy sử và vợ thầy, cô Diệp, dạy văn, gia đình thầy cô có một đứa con trai đã sống những tháng ngày thiếu thốn về vật chất như bao người khác thời bao cấp. Chúng tôi nghĩ có lẽ thầy chỉ trụ được vài năm rồi sẽ tìm cách trở ra Hà Nội dạy học. Nhưng không, thầy đã gắn bó với trường Phan cả cuộc đời mình, cống hiến trọn vẹn cho sự nghiệp trồng người ở mảnh đất xứ Nghệ.

Dù áo quần còn mới hay đã cũ thì lúc nào thầy cũng chỉn chu trong trang phục, áo quần được là ủi thẳng nếp, sạch sẽ. Tóc thầy ít, hơi thưa nhưng thầy chải vắt qua một bên và lúc nào cũng bóng mượt.

Thầy tận tâm giảng dạy. Trước đây chúng tôi học môn lịch sử, chủ yếu là học thuộc lòng để trả bài. Từ khi học với thầy, một thế giới mới đã mở ra trước mắt chúng tôi. Những sự kiện lịch sử tưởng là khô khan bởi những con số ta thắng, địch thua, dưới bài giảng của thầy đã trở nên sống động lạ thường. Bằng kiến thức uyên  thâm kim cổ, thầy đã phân tích các sự kiện, hoàn cảnh xảy ra, giá trị thay đổi sứ mệnh của dân tộc qua những sự kiện lịch sử đặc sắc. Không chỉ là lịch sử Việt Nam mà giảng  lịch sử thế giới thầy cũng phân tích về nguyên nhân, diễn biến và kết thúc các sự kiện hết sức sống động, đầy thuyết phục. Ngoài chương trình trong sách giáo khoa, thi thoảng giữa các bài giảng, thầy kể cho chúng tôi nghe lịch sử, văn học các dân tộc khác trên thế giới khiến cho giờ học trở nên sinh động, thu hút lạ thường. Thầy giảng bài nhưng không bao giờ nhìn vào giáo án, với một viên phấn trong tay, những mũi tên, vòng tròn  vẽ ra trên bảng cùng những kiến thức vô tận thầy truyền đạt say sưa   khiến chúng tôi mê mải tiếp nhận. Thầy đã kể cho chúng tôi nghe  nhiều điển tích lịch sử, điển tích văn học và trích dẫn cả những vần thơ, đoạn văn đặc sắc. Học môn lịch sử của thầy, chúng tôi học thêm được cả khoa học tự nhiên và nhân văn học.

Học lớp chuyên văn đã đành, khối chuyên toán cũng mê mải nghe thầy giảng sử.

Chưa bao giờ chúng tôi thấy thầy nóng nảy, quát nạt hay xúc phạm ai.  Thầy sống giản dị, khiêm nhường hòa đồng với đồng nghiệp, dành tình yêu sâu sắc thủy chung cho vợ, yêu thương sâu nặng con cái mình. Chưa bao giờ có ai nghe thầy phàn nàn về thời cuộc hay cuộc sống khó khăn. Ở cái tuổi “nhất quỷ, nhì ma, thứ ba học trò” cũng có  đôi khi chúng tôi cũng làm thầy phật ý, gây ồn ào trong lúc thầy đang giảng bài. Nếu là thầy, cô giáo khác, nhất định học sinh phá rối trong lớp sẽ bị bạt tai hay đuổi ra khỏi lớp. Thầy thì khác, thầy nghiêm giọng: “Này em kia, em giữ trật tự cho cả lớp học bài, em mà nói chuyện nữa, tôi ném cả hòn phấn vào miệng em bây giờ”… Đến cả câu mắng nặng nhất của thầy cũng vang lên với âm điệu ngọt ngào.

Sau những buổi học, nhiều khi chúng tôi nghe giọng hát êm ái cất lên cùng tiếng đàn du dương. Thầy ôm cây đàn hát, nhìn điêu luyện như một nghệ sĩ chuyên nghiệp

Chúng tôi yêu lịch sử, yêu hơn dân tộc, đất nước mình qua những bài giảng của thầy. Cao quý hơn, qua hình ảnh, nhân cách của thầy, chúng tôi hình thành cho mình một tư cách trí thức để rồi ra trường, đến với nhiều môi trường khác, chúng tôi phát huy văn hóa trí thức đó để hoàn thiện bản thân.

Tất cả học trò trường Phan đều yêu quý, kính trọng thầy. Xa trường đã bao nhiêu năm, mỗi lần cựu Phan nhân gặp nhau, ngoài thầy, cô giáo chủ nhiệm thì người chúng tôi nhắc đến nhiều nhất là thầy Kiêm. Có lần tôi nói với người anh thân thiết: “Nếu hồi đó, em không đi du học ở Liên Xô (trước đây), anh sẽ cưới em chứ?”. Anh trả lời: “Lịch sử không được phép giả định”. Thầy  Kiêm dạy chúng  ta thế mà!”. Chúng tôi cười, đúng rồi, chúng ta không nên tiếc nuối những gì đã qua bởi lịch sử không cho ta chữ “nếu”. Vì thế hãy sống tốt với hiện tại để làm chủ tương lai. Hiện tại của hôm nay là quá khứ của ngày mai, hãy viết trang sử thật đẹp của đời mình bằng những hành động hữu ích trong hiện tại.

Chúng tôi ra trường, nhớ mãi hình ảnh các thầy cô đã yêu thương chăm sóc, hết lòng truyền đạt kiến thức cho chúng tôi. Trong đó hình ảnh mảnh mai, thanh lịch của thầy Kiêm luôn án giữ trong trái tim và trí óc mỗi đứa. Chúng tôi thường nói với nhau, nếu thầy giáo nào cũng uyên bác và hết lòng yêu thương học sinh như thầy Kiêm thì làm sao học sinh có khái niệm chán học môn lịch sử.

“Thầy Kiêm mất rồi”. Thầy thọ 88 tuổi! Hôm qua, chúng tôi truyền cho nhau cái tin đau buồn đó. Tất cả đều bàng hoàng thương xót thầy. Đành rằng “sinh, lão, bệnh, tử”. Thầy cũng không thể tránh được quy luật của muôn đời nhưng cái tin thầy mất đã làm chúng tôi đau xót như mất đi một người thân yêu nhất.

Thưa thầy! Khi ngồi viết những dòng này, nước mắt em đang rơi giàn dụa! Ngày đi du học ở Nga, em gửi thư cho thầy, ép trong đó là chiếc lá bạch  dương màu vàng. Quà em gửi cho thầy chỉ có thế, em biết là thầy hiểu, ước vọng lớn lao của em ngày học ở trường Phan là được du học ở nước Nga, đất nước có một lịch sử vĩ đại. Em thi đại học đủ điểm đi du học một phần cũng là nhờ môn lịch sử đạt điểm cao. Với tâm hồn nhạy cảm và tinh tế, em tin là thầy hiểu nỗi lòng em như thầy luôn hiểu học trò của mình.

Vĩnh biệt thầy kính yêu! Thầy là  một trong những người thầy khả kính nhất mà em được biết! Thầy là người Thầy viết hoa.

Em không thể ra Hà Nội tiễn  đưa thầy. Các bạn K10 Phan Bội Châu ở Hà Nội sẽ thay mặt bọn em đến tiễn đưa thầy về nơi an nghỉ cuối cùng.

Xin gửi lời chia buồn sâu sắc tới cô Trần Thị Bích Diệp và hai em Lê Thành Khôi, Biện Ngọc Lan.

Xin chia buồn cùng trường Phan và các thế hệ Phan nhân!

Tin rằng hương hồn thầy sẽ sớm an lạc chốn vĩnh hằng!

Tp. HCM ngày 10/7/2024

NGUYỄN THỊ THẢO CHI[3]

PHAN TRONG TÔI

Dẫu lìa ngó ý còn vương tơ lòng…

Phan trong tôi là nơi chắp cánh cho biết bao thế hệ học sinh cất bước bay xa. Phan trong tôi, là niềm tự hào chứa chan trong tim dù đặt chân tới bất kì ngôi trường nào, miền đất nào. Niềm tự hào ấy chính là sợi “tơ lòng” khiến bất kể ai đã từng khoác trên mình chiếc áo Chuyên Phan đều vấn vương một tình cảm đặc biệt, một niềm mong mỏi đón chờ “ngày trở về”. Trở về với thanh xuân, tuổi trẻ, trở về với những khung trời kỉ niệm; trở về với vòng tay thân thương của thầy cô, bạn bè; trở về để một lần nữa nhìn thấy chính mình trong màu áo đồng phục quen thuộc. Càng đi lâu, càng đi xa lại càng thổn thức ngóng trông ngày trở về. Trở về với Phan, chính là trở về nhà. Không chỉ là nhà của một người, nhà của một thế hệ mà còn là nhà của nhiều người, nhiều thế hệ. Một mái nhà chung ươm mộng ước, ươm tài năng, ươm trí tuệ và ươm cả tâm hồn. Thật kì lạ rằng học sinh Phan đều có thể kết nối với nhau một cách tự nhiên, dù cùng hay khác thế hệ. Chỉ cần gọi nhau bằng hai tiếng Cựu Phan ấm áp là đã cảm nhận được sự đồng điệu trong tâm hồn mà không cần nhiều lời. Sự kết nối đặc biệt ấy chỉ có thể tồn tại khi trong thâm tâm chúng ta luôn coi nhau là “người một nhà”.

Chúng tôi hay nói vui với nhau rằng Phan như mối tình đầu trong sáng, đẹp đẽ, đầy hoài niệm. Có lẽ bởi Phan từng nuôi trong mỗi đứa trẻ mới lớn một niềm ao ước mơ hồ được trở thành một phần của ngôi trường có bề dày truyền thống và thành tích đáng tự hào. Học sinh Phan là hình mẫu “con nhà người ta” mà bố mẹ nào cũng mong mỏi con mình trở thành. Giai thoại về các anh chị trường Phan cứ gieo vào lòng những đứa trẻ ngây thơ niềm khao khát trở thành “một điều gì đó”, trước tiên là niềm tự hào của bố mẹ, gia đình và sau đó là niềm vinh dự, thậm chí có chút tự mãn thơ dại cho chính bản thân mình. Chính bởi vậy mà mỗi kì thi tuyển sinh vào Chuyên Phan là một mùa hè đổ lửa, vì cái nắng chói chang tháng 7, vì vô số giọt mồ hôi và cả nước mắt đã rơi. Nước mắt chia đôi cho cả kẻ đỗ và người trượt, một bên khóc vì sung sướng, hạnh phúc; một bên khóc vì hụt hẫng và tiếc nuối. Phải lao đầu vào ôn thi, phải mất ăn mất ngủ, phải “cày đường” liên tục trong suốt mấy tháng hè mới hiểu hết được những cung bậc cảm xúc ấy. Còn nhớ khi vào Phan, tôi cũng đã từng khóc lớn khi điểm thi không như kì vọng, sau đó khấp khởi vui mừng khi biết tin đậu nguyện vọng hai và rồi vỡ oà trong sung sướng khi chính thức nhận giấy báo trở thành học sinh lớp 10C1 – Chuyên Văn. Giờ đây nghĩ lại mới hiểu, niềm hạnh phúc chính là cảm giác khi ta được chạm tay tới ước mơ. Bao năm rồi vẫn thế, Phan luôn là giấc mơ của nhiều người.

Cứ thế, Phan gieo bao sợi “tơ lòng”, khiến người ta khao khát được bước chân qua cánh cổng trường, khiến người ta tiếc nuối vì vụt mất khỏi tầm tay tấm vé quý giá, rồi lại còn khiến ngưới ta nhớ nhung, bồi hồi khi ôn lại kí ức của 3 năm thanh xuân. Tiếng “Phan” thân thương đến nỗi chúng tôi dùng để đặt thành tên riêng cho mọi thứ, dù là vật bé nhỏ nhất. Xoài Phan, xôi Phan, áo Phan, căng tin Phan, ghế đá Phan, hoa giấy Phan, nhà xe Phan…. Mỗi cái tên là một mảnh kí ức thân yêu, gọi dậy nỗi nhớ. Hay chính nỗi nhớ và kí ức của mỗi người, gửi lại nơi từng góc sân khoảng trời mới khiến cho mỗi vật vô tri đều trở nên gần gũi, đáng yêu đến thế. Phan có lúc mơ mộng, xa xôi nhưng có lúc bình dị, thân thuộc vô cùng. Vì Phan là một phần của tuổi trẻ, vì Phan chứng kiến biết bao kỉ niệm vui buồn, chứng kiến thời gian chảy trôi, lớp lớp thế hệ nối tiếp nhau đến rồi đi. Mỗi mùa trôi qua, Phan lại lẳng lặng thay màu áo. Hè rợp bóng xanh, thu rực sắc đỏ. Mỗi một lần Phan thay áo, chúng tôi lại tự nhắc nhau rằng lại một năm nữa trôi qua, ước gì mùa thay áo cứ dài thêm nữa để cho lũ chúng tôi được sống mãi với giấc mộng tuổi học trò. Ai cũng ôm trong mình một mục tiêu, một mơ ước riêng, cùng với đó là nỗi sợ, sự lo lắng không thể tránh khỏi. Phan để lại cho chúng tôi quãng thời gian yên bình, tươi đẹp vậy nên không ai nỡ nói lời chia tay. Đến khi chia tay rồi, chúng tôi lại ước được trở về những năm tháng cấp 3 một lần nữa. Mỗi người mỗi hướng đi nhưng ai cũng đều biết, không đâu bằng ở Nhà.

Thật vậy, Phan trong tôi, là Nhà. Là gia đình, là mái ấm và cũng là nơi cho ta hành trang để sải cánh vươn xa. Hành trang ấy là tri thức, trí tuệ, những bài học cuộc đời, cách đối nhân xử thế. Thầy cô không chỉ dạy chúng tôi trở thành những người tài mà quan trọng hơn, phải trở thành những người tử tế. Hành trang được thầy cô trao gửi cho từng thế hệ học trò, duy trì bền vững qua nhiều năm trở thành truyền thống, thương hiệu Chuyên Phan. Để rồi khi bước ra khỏi vùng an toàn, vươn tới những môi trường mới học sinh Chuyên Phan lại khắc ghi trong mình bài học làm người ấy, khiến thương hiệu Phan ngày càng tỏa rạng. Dường như ai từng khoác lên mình chiếc áo Chuyên Phan đều có ý thức vô hình rằng phải làm sao để luôn xứng đáng với danh xưng “học trò đất học”. Khoác trên mình áo đồng phục Phan chinh chiến khắp các cuộc thi lớn nhỏ trong nước và quốc tế, chính ý thức và niềm tự hào trong truyền thống lâu đời ấy đã trở thành điểm tựa tinh thần tiếp thêm sức mạnh ý chí cho bao thế hệ Phan nhân ghi danh trên bảng vàng thành tích. Phan trong tôi, mãi là niềm tự hào và biết ơn sâu sắc.

Có lẽ bất kể ai từng là học sinh chuyên Phan đều mãi nhớ hai câu thơ của Chế Lan Viên:

Khi ta ở chỉ là nơi đất ở

Khi ta đi đất đã hoá tâm hồn

Phan trong mỗi người đều là mảnh đất ươm mầm ước mơ, gieo trồng tri thức, nuôi lớn tâm hồn và nhận thức. Phan không chỉ là tên của một ngôi trường chuyên giàu truyền thống mà còn là một thương hiệu, một lối sống. Phan trở thành một phần làm nên bản sắc riêng của mỗi học sinh khoác áo Chuyên Phan. Phan là người cận vệ già chứng kiến sự trưởng thành của biết bao thế hệ học trò. Chúng tôi gọi Phan là mái nhà chung, vì đấy là nơi luôn giang rộng vòng tay chờ đón chúng tôi trở về.

THẦY GIÁO TRẦN HỮU DINH

BÊN ĐÓ BÊN ĐÂY

(Gửi con gái Minh Nguyệt)

Con gửi thư về nhiều hơn mẹ gửi sang

Mẹ hiểu, con nghĩ nhiều về Tổ quốc

Con lo mẹ ở nhà khó nhọc,

Mẹ mừng con bên ấy cũng quê hương.

Ngắm ảnh con đứng trên đá lát Hồng trường,

Giữa ngày nghỉ vui chơi cùng bè bạn

Ngày đó con ơi bên mình nắng hạn

Mẹ thức thâu đêm lúa nghẹn đòng.

Con ra ngoài ở giữa buổi chiều vàng,

Lá bạch dương rụng đầy lối nhỏ

Bố kịp về dói lại nhà sau cơn bão tố

Và ra đi chống gậy lội bờ Vang.

Bên lò sưởi, con say từng trang sách

Ngoài trời đông hoa tuyết phủ trắng cành.

Mẹ đến lớp, đường trơn, đôi dép xách

Lớp học gió lùa, em bé áo phong phanh.

Đường quê ta còn gập ghềnh sỏi đá

Chợ thì xa, trông cậy mảnh vườn nhà.

Mướp đã ra hoa, cải xòe xanh lá,

Cam đã vàng – nhớ đứa con xa

Đời cứ vậy, giữa mùa đông sương giá,

Đã nghe Xuân chuyển nhựa lên cành.

Nếp đã sẵn, lợn chuồng đang vỗ béo,

Tết quê mình vẫn rộn rịp bánh chưng xanh…

Mẹ viết vần thơ giữa thành phố đỏ,

Nặng ân tình bên đó bên đây.

Con có vào lăng Lê Nin viếng Người, con nhớ

Thay mẹ chốn quê nhà dâng một cụm hoa tươi.

Xuân 1983

CAO HỒ MỸ GIANG[4]*

BẾN ĐÒ TUỔI THƠ

Có những chiều lối đi về mưa phủ

Phố chợt trầm, chợt vắng, chợt cô liêu

Em tự hỏi giờ này nơi trường cũ

Mái tóc thầy sương nắng đã bao nhiêu?

Vẫn trong em mỗi sáng, mỗi chiều

Thuở ấu thơ thầy dạy em lẽ sống

Dắt em qua nỗi buồn và ác mộng

Giữa biển đời khúc khuỷu chẳng bình yên

Em dù lớn nhưng vẫn là con nhóc

Cánh còn non yếu ớt vỗ giữa đời

Không đi nổi và thế là đứng khóc

Nhớ lời thầy ngăn nước mắt đừng rơi

Mưa vẫn rơi… vẫn rơi và thỏ thẻ

Cuộc đời thầy có phải chuyến đò ngang

Em chợt hiểu và thầy ơi em sẽ

Là khách qua chẳng nguôi nhớ bến đò.

TRẦN THỊ BÍCH HÀ[5]*

TRƯỜNG XƯA YÊU DẤU

Thời gian ơi, kỷ niệm đã xa rồi!
Đời học trò chẳng bao giờ trở lại
Bè bạn cũ đã về nơi xa ngái
Bộn bề những nỗi âu lo

Chiều nay tôi lang thang về trường xưa
Lớp học ngày nào hằn sâu trong nỗi nhớ

Mái tranh nghèo nghiêng trước từng cơn gió

Cây bạch đàn cằn cỗi với tháng năm

Gương mặt bạn bè quá đỗi thân quen
Hai mươi năm qua và nhiều lần hai mươi năm nữa
Chẳng thể nào quên từng nụ cười nét chữ
Giọng nói mỗi miền xứ Nghệ cũng khác nhau

Trường tôi nghèo, bữa cháo bữa rau
Trưa gió Lào mịt mù cát trắng
Lớp học đơn sơ bốn bề thông thoáng
Gió mặc sức… bay

Những giờ sử, giờ văn có chất men say
Quên tục trần, tâm linh tôi theo cùng cõi mộng
Hồn thầy trò cùng bay bổng
Niềm tin chắp ước mơ xa

Giã trường xưa gặp bão tố phong ba
Trước cuộc đời không ít lần ta lạ lẫm
Hơn nửa đời rồi vẫn chẳng thể nào quen với

dối lừa bội phản
Dại khờ trước những kẻ khôn ngoan

Muốn trở lại thời xưa, độ tuổi mười lăm

Chỉ biết bạn bè quanh ta yêu thương trong sáng

Chỉ biết thầy cô miệt mài trên bưc giảng

Chỉ biết tin đời qua những áng thơ văn

Muốn trở lại thời xưa, độ tuổi mười lăm

Muốn trở lại trường xưa, mái trường năng khiếu

Tuổi mười lăm ơi, trường năng khiếu!

Giá một lần được trở lại nơi xưa

HẢI HÀ [6]

MÙA THU XANH

Tặng bạn bè thân yêu

Sáng thu xanh tôi chợt thấy nao lòng

Thoáng lá rụng gọi về bao kỷ niệm.

Chợt nhớ quắt quay nụ cười thương

Của bạn bè bao ngày tháng chờ mong.

Có bao giờ về lại với dòng sông

Với tuổi thơ trải dài theo bờ cát

Cánh diều nhỏ vi vu cùng sóng hát,

Gọi một thời da diết giữa tầng không.

Sáng thu xanh, run rẩy phút xao lòng

Lá cứ rụng thay mùa trong lưu luyến

Nhẹ nhàng thôi mà hồn tôi xao xuyến

Có bao giờ về lại với dòng sông?

Mùa thu 2006

NGUYỄN GIA HÀ[7]

MỘT THOÁNG TRƯỜNG PHAN

“Tao sẽ đi tu”– Lê Hòa nói to giữa lớp chắc vì thất “tình học trò”. Có bạn nào chen vào: “Mày mà đi tu chắc chùa đổ cột”. Mà Hòa không đi tu thật. Cha Anh hùng con cũng phải dũng sĩ chứ. Chùa nào chứa nổi.

Gần với mình nhất có lẽ Lê Thời Tân, mình gọi Tân Dậu, vậy mà cái tên thân ấy theo Tân đến bây giờ. Tân cùng đồng hương Thanh Chương, đa mưu túc kế, thích thơ Đường, thâm nho. Vừa rồi về Hà nội gặp Tân sau 30 năm, là PGS đại học ngành Hán văn, nghiệp chọn chẳng nhầm người. Tân sống có tâm, mà “làm thằng đàn ông có tâm thì nhục, tâm càng lớn, càng nhục”. (Nguyễn Huy Thiệp).

Trường Phan với mình là bao kỉ niệm, vừa hời hợt, vừa sâu nặng không đâu bằng dù mình chỉ được học ở đó có một năm lớp 8 khoá học 1983-1984. Vật đổi sao dời, mình về trường huyện học cấp 3, sau vào trường Luật 1 năm, rồi sang Nga đến tận giờ. Bằng cấp đầy người nhưng chưa dùng cái nào cho đúng nghĩa. TS luật mà làm xây dựng, mở công ty dược. Hi hi. (Từ này mình mượn của các bạn hay nhắn tin cho nhau trên điện thoại, trên mạng).

Hồi học ở Vinh, có lần một mình lang thang xuống khu Giao tế chơi, bị thằng trẻ trâu cậy dân thành phố dọa, lấy mất cái mũ cối ông anh đi bộ đội Cam-pu-chia mới gửi cho. Ấm ức, xót của, chạy về trường nhờ anh Lương Cư đi đòi. Hai anh em hùng hổ đi tìm thằng trẻ trâu, Lương Cư chạy trước, mình chạy sau, một chốc thấy Lương Cư quay lại thở không ra hơi: “Mẹ thằng ranh, nó phi trâu nhanh quá, anh đuổi không kịp!”. Nghe vậy biết vậy chứ chắc gì dám đuổi. Thế là toi cái mũ cối.

Với Trần Khắc Hoàng cũng nhiều kỉ niệm. Lớp hồi đó thầy Phương chủ nhiệm, thầy có bài thơ hay “Mùa quả Hương Sơn”. Lớp học dài được ngăn phía cuối bằng ri-đô cho dân huyện lẻ ở nội trú chưa được cấp phòng. Hoàng có tráp tôn hoa khóa bằng ổ khóa Vi-ro màu vàng, chìa khóa lúc nào cũng ̣đeo lủng lẳng ở cổ bằng sợi dây dù. Sau này cùng học với nhau khóa 12 trường Luật Hà nội. Một lần mấy đứa đến dự sinh nhật chị D, nghe đồn chị này làm thêm cái gì bí hiểm. Hoàng đứng dậy chúc: ”Cửa hàng buôn bán cho may. Đêm đêm hàn thực ngày ngày nguyên tiêu”, bị chị mời ra khỏi phòng. Sau này xem trên Gu-gồ thấy Hoàng làm đến quan án, có cả số điện thoại cơ quan, mình gọi vào giờ làm việc suốt một tuần, không ai bốc máy. Nản.

Ký ức năm tháng trường Phan của mình là thế. Không theo thứ tự thời gian, cũng không hệ thống được. Theo kiểu nhảy cóc, nhớ đâu viết đó. Đại loại nhớ cả những chuyện như anh Minh Xà-địu hô “Xào cờ, xào”, hay chuyện thầy Đào dạy hát bài “Ô-đuông Chăm pa” bằng tiếng Lào giờ mình vẫn thuộc, thỉnh thoảng hát. Các bạn Lào phục lăn. Hay câu ranh ngôn của bạn nào “Ghẻ không bao giờ lặn trên Hoàng Anh”vân vân.

Nhật Minh dân thành phố, thư sinh, khoe là am hiểu nhà quê, nói là đã về quê và còn biết cả cái cày đứng hai chân, sau mình ngộ ra là cái bừa.

Lê Huyền hiền, trầm tính. Khi ôn thi đội tuyển văn quốc gia, thầy giảng bài, mình và bạncó làm thơ con cóc ném cho nhau. May thầy không bắt được.

Trường mình thật vui, nhớ cả câu hát chế: “Ai về trường em, trường chuyên tán, chuyên ăn”. Bao nhiêu người tài xứ Nghệ ra đi từ mái trường này.

Phương Trang nhí nhảnh, có lần đứng dưới cửa sổ phòng học nhờ bạn nào đưa cái ca men. Bạn tung ca, Trang đỡ chậm nên ca rơi vào răng. Đọc văn rất điệu và rất truyền cảm.

Minh Châu tốt bụng, hay mủi lòng. Nay hai vợ chồng là nhà giáo, quý bạn bè và rất nhiệt tình.

Mỹ Linh thông minh, xinh đẹp mà hiền khô. Mới đây tiếp xúc qua mạng Mỹ Linh khai là rất nghịch, còn phù thủy gì đó nữa. Hoang mang. Nhận được danh sách đăng ký hội khóa 13 của các bạn mới thấy bạn bè đều thành đạt, mừng không biết bao nhiêu mà kể. Ai nói: “Lập thân tối hạ thị văn chương”?

Mình ít liên lạc được với bạn bè trường Phan, một phần cũng vì xa xôi cách trở, thêm nữa là hầu như không xài mạng xã hội, thỉnh thoảng đi đâu xa bà xã dúi cho cái máy có Viber coi như bàn tay nối dài của vợ.

Tiếc mình chỉ có một năm gắn bó với trường Phan, nhưng là một năm bước ngoặt, là cú hích của cuộc đời. Một năm, nên nhớ quên, quên nhớ cũng thường. Các bạn được học với nhau 3-4 năm, có nhiều ân tình, có nhiều kỉ niệm nên có thể đã quên mấy mẩu chuyện nhỏ của mình. Với mình, đó là ký ức, để thi thoảng lại được “ăn mày dĩ vãng”.

Hẹn gặp lại trong ngày hội khóa.

Nước Nga tháng 5.2017

NGUYỄN NGỌC HÀ[8]

MIỀN CỔ TÍCH

Cha kể cho con

về miền cổ tích

Ngày xưa

cô Tấm, Thạch Sanh

Mẹ kể cho con

về miền cổ tích

thuở ấu thơ

hỡi những cánh đồng xanh

Cô kể cho con

về miền cổ tích

Cò trắng bay

chấp chới nắng câu ca

Thầy kể cho con

cũng một miền cổ tích

kì diệu sao phép tính

một, hai, ba

Nay con kể cho con về miền cổ tích

Cổ tích con có mẹ, có cha

Có thầy cô, có bạn bè trang lứa

Con vào đời trên đôi cánh ước mơ.

PHẠM THỊ CÚC HÀ[9]

THỜI CỦA CHÚNG MÌNH

…Tâm hồn tôi, vốn dĩ treo ngược cành cây từ những ngày rất thơ bé, những ngày chỉ cần trùm cái khăn lên đầu đã nghĩ mình là công chúa hay nằm dưới bầu trời đầy sao, lại thêu dệt ra bao chuyện nên thơ, tự nghĩ, tự đối thoại trong đầu đủ thứ hay ho, lãng mạn. Thực tế thật ra cũng đắng cay. Tôi cao lêu nghêu và gầy nhẳng, nước da cháy đen bẩn bẩn do suốt ngày trốn mẹ đi bắt cua và mót lạc. Tôi nhớ có lần đi học về qua con đê, năm đó chắc tôi lớp 6, lớp 7 gì đó, có mấy thằng thanh niên đó đi đằng sau nó huýt sáo thế nào đó để tôi quay mặt lại. Khi tôi quay mặt lại, chưa hiểu có chuyện gì thì lập tức được mấy cái tiếng dè bỉu: “Ôi trời, tưởng gì!” Có thể cái dáng tôi nhìn sau lưng cũng được, còn trực diện có lẽ là “văn học hiện thực phê phán” quá. Nhưng tôi nhớ mãi kỉ niệm buồn này, và chỉ còn mỗi cách để học cho giỏi. Vậy nên lớp 7, có thằng bạn nó cứ thích múa và nắm tay tôi khi múa, tôi thấy lạ lắm, không hiểu thằng bạn ấy bị làm sao. Một năm trời học lớp 7 cảm giác cứ lâng lâng và khó hiểu như thế, cho đến khi thằng bạn vào Phan Bội Châu trước một năm, mẹ tôi giữ tôi lại học lớp 8 ở nhà, thách thức là xem Phan Bội Châu với mẹ mày, ai thắng. Mẹ thắng, dĩ nhiên, năm sau tôi lại tiếp tục thi đỗ vào Phan Bội Châu, nghe đâu điểm còn rất cao. Tôi lạc mất một năm, và lạc luôn thằng bạn, đứa bạn trai duy nhất có lẽ là thích mình từ thủa cha sinh mẹ đẻ… Có lẽ Xuân Diệu, rồi Huy Cận, rồi những Olga Becgon làm tâm hồn tôi lạc lối một lần nữa, thật sự lạc lối. Có lẽ đó thực sự là tình yêu đầu, ánh mắt to cháy bỏng… mỗi tội không dành cho tôi. Chuyện cổ tích tuổi 17 thúc giục chúng tôi sống như trong chiến tranh những ngày cuối, cháy hết mình như hoa đỏ trong “Cuộc chia li màu đỏ”, để rồi chia tay. Tôi nhớ mình đã đứng trong mưa, và người đó, có lẽ cũng rất “gentleman” nên không kể cái chuyện đấy cho ai, tôi hi vọng là cho đến bây giờ! Tôi nhớ cái cảm giác lên chùa Hương, khi lòng buồn nhất, vô vọng nhất, và nghĩ trời ơi sao người ta có thể đi tu? Mình không thể đi tu được, vì mình sợ cảm giác không được ai tìm đến, tìm về.

Đến bây giờ, nghĩ cũng rất may mắn vì ngày đó là tình yêu đơn phương, và ta có thể đổ tội cho tuổi học trò ngây thơ. Vì thực ra trong thâm tâm, tôi cũng chỉ định gây “tội ác” rồi bỏ chạy, vì… vì… như Xuân Diệu nói, “Yêu là chết ở trong lòng một ít”, mình chỉ định chết một ít, để có cảm giác là mình thực sự sống. Vào năm thứ nhất Đại học ở bên Nga, có ông giáo dạy môn Thẩm mỹ học hình dáng chẳng khác gì Lê nin, hỏi đi hỏi lại chúng tôi: “Vậy tình yêu là gì?”. Chúng tôi đua nhau: “Tình yêu là khi chúng ta yêu ai đó vì người đó tốt đẹp, là khi chúng ta thực sự cần nhau, muốn có nhau trong đời, muốn chết vì nhau…” blah blah… bao nhiêu điều cao thượng và cao siêu khác. Còn ông giáo già bĩu môi, kiểu như các anh chị toàn nói điều tầm bậy, tình yêu thực sự chỉ đơn giản là cái nhu cầu của con người, nó như nhu cầu ăn, hay uống, hay thở vậy. Và cái người được yêu ấy, chẳng qua là gặp đúng thời điểm và gặp đúng cái nhu cầu yêu thương của cái người kia mà thôi… Mình há hốc mồm về cái sự “tầm thường” của tình yêu, nhưng cũng phải công nhận có lẽ sự thật cũng không quá xa. Tôi từng thuộc lòng cái câu trong đoạn kết của “Người tình”: “Nhiều năm sau chiến tranh, sau những cuộc hôn nhân, những đứa con, những cuộc ly dị, những sách vở…” họ lại tìm đến với nhau… như luôn mong chờ có một tình yêu vĩnh cửu. Tuy nhiên, cuộc sống của chúng ta là: Nhiều năm sau những thành công, những thất bại, nhiều công việc khác nhau, những/ một cuộc hôn nhân (hy vọng chưa có ly dị), những đứa con, nhiều đời người giúp việc, những lần lên cân và đánh mỡ bụng sau khi sinh, các buổi nhậu nhẹt và những bụng phệ, đầu hói… chúng ta lại gặp nhau, với những tình cảm ấm áp và tốt đẹp nhất: chúng ta cũng từng có nhau trong đời. Chẳng phải như thế đã là tuyệt vời lắm rồi sao?

NGUYỄN XUÂN HẢI[10]

NGƯỜI DƯNG

Người dưng có nhớ ta không

Người dưng, ta nhớ đắng lòng mắt, môi!

Dẫu là chưa gặp người ơi

Tim ta đã chết ở nơi mắt người!

Đã gần đi hết cuộc đời

Lại da diết, lại bồi hồi hơn xưa

Ta về khi phố đang trưa

Nắng đang đứng và người chưa kịp về

Ta về đau suốt cơn mê

Cô đơn ta giữa bộn bề nhân gian

Kìa em, nắng cũng khóc than

Đến cạn kiệt, đến giòn tan mặt đường

Em về, ghé mắt vào gương

Sẽ bắt gặp người ta thương buốt lòng!

Chiều nay ai nhớ ai không

Còn ta, thương nhớ đầy lòng người dưng

Chao ôi, giá có thể dừng

Niềm khao khát cuối con đường quanh đây

“Chiều nay, sao lại chiều nay

Bàn tay, sao lại bàn tay của mình”!

THẦY GIÁO NGUYỄN VĂN HẠNH

RẠNG DANH ĐẤT HỌC

Diễn Thành nơi ấy năm xưa

Hệ chuyên thành lập kế thừa Toán, Văn

Thầy, trò chẳng quản nhọc nhằn

Lớp học nứa lá, khó khăn bộn bề

Thầy, Cô tâm huyết yêu nghề

Dù khoai dù sắn vẫn mê giảng bài

Thầy Thông, Cô Diệp,… miệt mài

Đêm ngày nghiên cứu những bài học hay

Ươm mầm gieo hạt hăng say

Sáu lớp Văn, Toán – Cô, Thầy chăm lo

Cơm chẳng có, ăn “bo bo”

Dân thương, dân mến, dân cho gạo dùng

Trò góp gạo thổi cơm chung

Thầy thiếu bữa vẫn ung dung giảng bài

Trưa bếp đỏ – trông chờ ai,

Cho một nắm gạo để xài cơm đây?

Dù đói khổ vẫn sum vầy

Tình Thầy, nghĩa bạn vẫn đầy yêu thương

Lán học đạt chuẩn “giảng đường”

Nửa trên bục giảng, “chiếu, giường” nửa sau

Dùng vách mỏng ngăn cách nhau

Trò nghỉ ốm vẫn thuộc làu Sử ta(1)

Trường năng khiếu chốn quê xa

Không ngừng vượt khó thăng hoa đỗ đầu

Văn, Toán hai lớp chuyên sâu

Trò xưa thành đạt khóa đầu vinh danh(2).

*****

Ba năm về lại thị thành

Hưng Lộc nơi đó đất lành đậu thôi

Khuôn viên Sở cũ chia đôi

Để Phan một nửa thành nơi dựng trường

Thời bao cấp vẫn thiếu lương

Đói cơm, rách áo vẫn thường lộ ra

Tiểu đoàn pháo(3) ở cạnh nhà

Cho vay ít gạo để mà cầm hơi

Gió Lào rít thổi từng hồi

Cơm trộn với cát vẫn xơi chỉnh tề

Rau khoai luộc chẳng có chê

Công trò hái trộm đưa về luộc thôi

Tình Thầy trò đẹp tuyệt vời

Mớ rau trò hái sẻ đôi “mẹ hiền”(4)

Thầy, trò sáng mái trường chuyên

Bản tình ca mãi lưu truyền mai sau

Thầy, Cô vững lái chuyến tàu

Là người cho chữ, chẳng cầu “tiền nong”

Thầy, Cô tỏa ngát tấm lòng

Tận tâm, nhiệt huyết chẳng mong đáp đền

Trò thấu hiểu quyết vươn lên

Rèn đức, luyện trí đáp đền công lao

Tâm Thầy tỏa sáng như sao

Văn hay, Toán giỏi ánh hào vang xa

Có Thầy Phan Tuấn hào hoa

Chân thành, mẫu mực chan hòa dưới trên

Thầy Dinh hiệu phó thật hiền

Công tâm, tận tụy nếp nền kỉ cương.

Trò chuyên Toán mãi vấn vương

Bài hình Thầy dạy tỏ tường phân minh

Thầy Thanh quả thật tài tình

Chỉ vài nét phấn định hình tư duy.

Nhân tài Tổ Toán thiếu chi

Đại hay, lượng giỏi nhất nhì Nghệ ta

Đó là Thầy Bỉnh chuyên gia

Cây cao bóng cả Tỉnh ta dẫn đầu

Thầy Phan Huy Tĩnh chuyên sâu

Phân môn hình, lượng Thầy xâu chuỗi mềm

Nhận gải thưởng “Lê Văn Thiêm”

Là lời khẳng định niềm tin của trò.

Thầy, Cô lái những chuyến đò

Đầy người, cập bến dặn trò thêm năng

Đêm rằm sáng tỏa ánh Trăng

Thơm mùi hoa dẻ chị Hằng dễ thương

Dậy thì lắm kẻ yêu đương

Tình thời hoa đỏ vấn vương nụ hồng.

Trai tài gái sắc vẫn mong

Công tư trọn vẹn ta đồng gia môn

Phan nhân thời ấy tinh khôn

Đức tài hội đủ, tâm hồn sáng tươi

Trăm hoa đua nở giữa đời

Giáo sư, Bác sỹ, … người, người vang danh

Xứng Phan nhân đã trưởng thành

Công dân mẫu mực, ước lành vươn xa!

*****

Năm năm tạm biệt mái nhà

Rời xa Hưng Lộc để mà an cơ

Trường Phan từ đó đến giờ

Hưng Bình tọa lạc đón chờ thăng hoa

Phan nhân đông đảo thuận hòa

Phong trào hai tốt – một nhà chung tay

Thầy Đinh Thông mãi hăng say

Là Thầy Hiệu trưởng ngày ngày xông pha

Chăm lo đội ngũ trường nhà

Nâng cao chất lượng để mà dựng xây

Trò học giỏi chính nhở Thầy

Nhân tài thu hút về đây trồng người

Thầy Hưng An rạng nụ cười

Dạy môn Vật lý tuyệt vời trò ưng

Thầy Cảnh Củng được chào mừng

Về Phan dạy Lý không ngừng bay cao

Thầy, Cô tỏa những ánh hào

Dựng xây trường lớp với bao nhiệt thành

Trường Phan phát triển thật nhanh

Thành tích đáng nể, vang danh Nước nhà

Học sinh giỏi cấp Quốc gia

Tăng nhanh số giải, lại là giải cao

Phan nhân thỏa chí anh hào

Vươn tầm Quốc tế lẽ nào chịu thua

Cùng nhau quyết chí thi đua

Huy chương Quốc tế đến mùa đơm hoa

Phan nhân trí tuệ sáng lòa

Quốc gia, quốc tế vươn xa tiếng nồng

Thầy Đắc tiếp nối Thầy Thông

Công tâm, chính trực, chuyên hồng đều tay

Người Thầy tâm thế tròn đầy

Yêu trò, mến bạn dựng xây “nghĩa trường”

Giờ này thắp nén tâm hương

Nhớ về Hiệu trưởng kỉ cương một thời.

Cầu mong Thầy được thảnh thơi

Bồng lai Tiên cảnh ở nơi Suối Vàng.

Trường Phan rảo bước sang trang

Cô Thanh(5) Hiệu trưởng mở mang Trường nhà

Phan nhân tiếp tục thăng hoa

Thầy hay, trò giỏi sáng lòa nơi nơi

Muôn hoa sắc thắm rạng ngời

Phan nhân chạm đến chân trời ước mơ

Vòng Nguyệt Quế mãi mong chờ

Nay thành hiện thực – không mơ nữa rồi.

Phan nhân sáng toả muôn nơi

Cùng xây Đất nước đẹp tươi mạnh giàu

Trường Phan phát triển thật mau

“Anh hùng lao động” thắm màu chiến công!

*****

Thầy Mùi Hiệu trưởng tỏ thông

Giỏi xây đắp để đồng lòng Phan nhân

Mười năm Hiệu trưởng kiệm, cần

Gần hưu, Thầy đã chuyển dần việc công

Thầy Thủy tiếp quản đầu Đông

Thắm trang sử mới, vẫn mong tiếp đà

Mười năm khúc khải hoàn ca

Sáu môn đạt giải vươn ra toàn cầu

Toán, Lý, Hóa đạt giải sâu

Bạc, vàng Quốc tế sắc màu thắm tươi

Tin, Sinh, Nga nở nụ cười

Huy chương Quốc tế rạng ngời Phan nhân

Văn nhân “trọng nghĩa khinh thân”

Dạy người, dạy chữ chính chân, thuận hoà.

Hội nhập tiêu chí vươn xa

Phan nhân năng động tình ca giữa đời

Rạng danh đất học quê tôi

Tinh hoa hội tụ về nơi chốn này

Phan nhân thỏa sức đắm.say

Rèn tâm, luyện trí tháng ngày thăng hoa

Vươn tầm thế giới vang xa

Dù ở đâu vẫn nhớ “nhà Phan” thôi.

Năm mươi năm thỏa nụ cười

Ươm mầm, gieo hạt cho đời thơm hương

Phan nhân bước tiếp chặng đường

Hội nhập, phát triển thành “thương hiệu VÀNG!”

(NVH.- 02.09.2024)

P/S: Tác giả xin cảm ơn cô giáo Trần Thị Bích Diệp và cô giáo Trần Thị Minh Nguyệt (gv Tiếng Nga) đã cung cấp tư liệu để tôi viết những dòng thơ này. Là giáo viên trường Phan thế hệ 7X, tôi chỉ nói lên những cảm nhận sâu sắc của tôi về mái truòng và Phan nhân, tôi không thể kể hết chặng đường phát triển 50 năm rất hoành tráng của trường Phan, rất mong các Phan nhân lượng thứ.

(1): Một hôm có một cựu học sinh bị ốm nghỉ học nhưng vẫn nghe đầy đủ bài giảng của thầy. Sau mấy chục năm họp lớp gặp thầy Kiêm, học sinh này xúc động nhắc lại kỷ niệm xưa.

(2): Cựu Phan khóa (1), (2) có: Anh Nguyễn Xuân Thắng hiện là UV BCT – Giám đốc Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh; Thiếu tướng Nguyễn Hồng Thái,…

(3) Tiểu đoàn Nguyễn Viết Xuân

(4): Cô giáo Trần Thị Bích Diệp

(5): Cô giáo Đinh Thị Lệ Thanh, nguyên Hiệu trưởng nhà trường.

A group of people holding a flag and awards

Description automatically generated

NHẠC SĨ LÊ HÀM

BẢN NHẠC NƠI ƯƠM NHỮNG MẦM HOA

ĐẶNG THỊ HẢO[11]

THĂM BẠN

Chúng tôi lên Hương Sơn vào một ngày nắng. Đoàn chỉ có 6 người, chúng tôi dừng lại ở Cửa Nam để mua quà cho hai bạn. Quà là một bó hoa huệ thật đẹp và túi hoa quả – lúc này các bạn chỉ cần có vậy!

Không hiểu vì sao tôi luôn tâm niệm rằng việc quan trọng nhất mình phải làm là lên Hương Sơn mời hai bạn về dự họp lớp, và tự hứa với mình phải thực hiện bằng được.

Con đường xa tít tắp, núi rừng Hương Sơn xanh vời vợi…

Khói hương u uẩn lẫn trong mùi hoa huệ trắng.Tiếng niệm kinh cầu phật và đôi mắt của bạn Hương nhìn chúng tôi từ khung ảnh viền đen.Bạn đã ra đi rồi, bạn yên nghỉ nơi nao,có nhìn thấu nỗi đau để lại cho người thân? Có thấy ba bố con đang gồng mình chịu đựng nỗi đau, kiên cường đến thắt lòng?Con gái học lớp 4 của bạn có đôi mắt thăm thẳm buồn như giọt nước mắt, không hề khóc, khi nhìn thấy bạn của mẹ thẫn thờ dõi mắt về xa xăm.Căn nhà nhìn vào đâu cũng thấy thiếu bàn tay mẹ. Liệu đến bao giờ những người thân yêu của bạn mới nguôi ngoai nỗi đau mất mát này? Hương ơi!

Rời nhà Hương,chúng tôi đến thắp hương cho Long.Đón chúng tôi là người bố đã 82 tuổi, bố hơi còng lưng, mái tóc bạc phơ, đôi mắt già nua thẫn thờ. Vẫn ngôi nhà gỗ ngày xưa, vẫn vườn trầu cây mít, chỉ bố mẹ là già đi. Thấy chúng tôi – những người bạn của con trai khỏe mạnh, thành đạt, vợ con đề huề, mẹ Long thở dài: giá như thằng Long nhà bác còn sống… Chúng tôi hiểu rằng mình đã vô tình chạm vào vết thương vừa lên da non của mẹ. Nỗi xót xa, tiếc nuối đau đáu của những người cha người mẹ miền quê nhọc nhằn suốt cuộc đời đắp đổi cho con với niềm hi vọng khi con trưởng thành sẽ đổi thay phần nào cuộc sống côi cút nơi quê nghèo. Bạn đã mang theo niềm hi vọng ấy mà đi mãi mãi…

Nhìn vào ảnh bạn, tôi bỗng thấy xót xa, bởi đó là gương mặt của một chàng trai mãi mãi tuổi 20. Chúng tôi đang ở đây, đã ngoài 40, đã và đang được sống với những niềm vui nỗi buồn của đời sống thường nhật.Còn bạn ở đấy, vẫn đôi mắt trong veo, thông minh đầy hi vọng – gương mặt tươi sáng vĩnh viễn dừng lại tuổi 20!

Ngày 1-7 là ngày giỗ thứ 20 của Long, mẹ kể rằng: 19 giỗ trước, giỗ nào Hương cũng có mặt, ngày giỗ thứ 20 Hương cũng đã ra đi rồi..

Hỡi sông Ngàn Sâu, hỡi núi Ngàn Hống, hỡi ngọn gió phiêu linh nào thổi tới cõi hư vô…Tại sao vậy? Tại sao phận người mong manh đến vậy, tại sao phải kết thúc khi còn dở dang bao việc cần làm, tại sao bắt những người thân chịu đựng nỗi đau cắt xé này?

Phải đến nơi đây, nhìn thấy gương mặt những người thân ở lại, bạn mới thấy được sự tận cùng của giá trị sống – sống không phải cho mình mà cho những người thân!

Đất trời Hương Sơn vẫn cao xanh vời vợi, mây ngàn, gió núi vẫn như xưa, chỉ các bạn là vĩnh viễn ra đi. Cầu mong linh hồn các bạn tìm được bến bờ bình yên. Cầu mong nỗi đau của người thân các bạn nguôi ngoai, bởi vì cuộc sống là guồng quay không nghỉ.

Cánh rừng xanh xao gió

Có tiếng chim từ quy

Hình như ai gọi đó

Bạn yên nghỉ mình đi.

ĐINH THU HIỀN[12]

HOÀI NIỆM TRƯỜNG PHAN

Tôi bỏ lại nửa chừng câu hát…

Lặng lẽ về

Bước nhạt con đường xa.

Nhớ! Trời ơi

Nhớ lắm một bài ca,

Viết dở…

Tôi gửi lại sân trường một nửa.

Một nửa mang theo,

Một nửa ai cất giùm?

Xa nhau rồi

Bạn còn nhớ tôi không?

Người ấy ở chung bàn, chung giọt nắng.

Ô cửa. Lá bàng. Khoảng trời mây rất trắng.

Phi lao đưa. Chớm nắng. Ưu tư buồn.

Sao ngẩn ngơ hoài hỡi đôi mắt xanh non,

Phấp phỏng lắm bởi người vô tâm lắm!

Tôi giã biệt khi bàng chưa kịp thắm,

Thu chưa trong nên mây cũng chưa về,

Chưa đọng tròn giọt nắng chín đê mê,

Bạn một nửa, sẻ dành tôi một nửa.

Hình như có đôi người khe khẽ nhớ,

Khe khẽ buồn bên ô cửa trống trơn,

Khe khẽ thương… nhưng đừng đi xa hơn

Hãy cứ giữ một chút buồn khe khẽ.

Hãy cứ giữ một chút lòng như thế

Cho nửa đời cắt xẻ không bơ vơ

Cho ngày ngày cô bé vẫn làm thơ

Hoài niệm mãi giấc mơ về một nửa.

A group of people in a frame

Description automatically generated

NGUYỄN THỊ HIỀN[13]

CHIẾC LÁ VÀNG VÀ VẦN THƠ XANH

Em đã nghe mùa thu vàng trong thơ

Này mới thấy tuyệt vời mùa thu trước mặt

Mùa thu nước Nga…

Trời thì cao xanh, trong vắt;

Gió thì mơn man thịt da,

Và cây – lá vàng rơi xào xạc

Màu vàng vào cả trong giấc mơ…

Cầm chiếc lá vàng trên tay

Em ơi! Lá vàng vừa rời cây

Lại chẳng rơi về cội!

Lá vàng lặng im không nói

Mà lời em văng vẳng đâu đây!

Cầm chiếc lá trên tay

Nhớ sáng nào giữa lòng Hà Nội

Tiễn em bay

Em đứng lặng

Nhìn thầy

Không nói…

12 – 1983

TRẦN KIM HOA[14]

NỖI NIỀM

Anh đến như ngày đến
Em đợi chờ từng giây

Từng phút, từng phút trễ

Kim giờ không thèm quay

Càng gần khi gặp gỡ
Ngày đến càng lâu hơn
Đêm dài bao trăn trở
Dằng dặc, dằng dặc chờ

Quyển vở trên bàn đợi
Em cất lên giá rồi
Làm sao mà học nổi
Khi chiều như ngừng trôi

Gió vào qua song cửa

Khẽ khàng tấm rèm bay

Khẽ khàng không chịu nổi

Thà gió đừng vào đây

Những sớm chiều trễ nải

Chưa từng thấy bao giờ

Nắng cũng không thèm nắng

Mưa cũng chẳng thèm mưa

Trời mùa thu xanh ngắt

Sông mùa thu lững lờ

Ở bên ngoài lớp học

Con nhện vàng chăng tơ..

TRẦN NGỌC HOA[15]

CON GÁI LỚP VĂN

Mắt liếc vội rồi trở về với bảng
Ngọ nguậy mấy sổ thơ, ánh nhìn lơ đãng
Tai lõm bõm Ơ-cơ-lít cùng Men-đen, Moóc-găng

Dạ để tít chốn Rô – mê – ô và Juy – li – ét…

Cười như trong mộng
Mắt mơ màng
Những cô gái say!

LÊ PHONG HỒNG[16]

HÈ ĐẾN LÀM CHI

Hè đến làm chi hè ơi
Nắng chia ly xé tơi bời lòng ta
Não lòng khi phượng đơm hoa
Đỏ loang như máu tim ta những ngày
Hoa xoan nát dưới chân giày
Mùa xuân đẹp nỡ cạn ngày rồi sao?
Gió lùa lay ngọn phi lao
Như vang khúc nhạc xôn xao gọi hè
Mỗi trưa trong nắng ta nghe
Xa xa văng vẳng tiếng ve gợi buồn
Mỗi chiều trong bóng hoàng hôn

Lòng ta bỗng thấy bồn chồn mùa thi

Phải rồi phút chốc xuân đi
Mùa hạ mang sắc chia ly đến gần
Nhưng sao trong sắc trong ngần
Ta mong hè chớ đến gần hè ơi
Ước gì hè mải rong chơi
Cho mùa xuân tắm mát đời tuổi thơ
Mùa thi đừng đến bao giờ
Vì nào ai muốn đợi chờ chia ly

A statue of a person under a tree

Description automatically generated

MINH HUỆ [17]

GỬI BẠN

(Thân mến tặng các bạn cựu HS Trường chuyên Phan Bội Châu)

Mười mấy năm, chân trần từng khắp nẻo

Ta trở về gỡ sương khói rêu phong

Ngửa bàn tay xưa đếm vì sao rụng

Nghe lao xao từng hạt cát trưa nồng

Nghiêng vòm cây, chiều mắt em biếc trong

Vầng ngực thầm thì giữa mùa hạ cháy

Rũ phong trần, ta lại là bé dại

Là trinh nguyên hoa trắng ngủ trên đầu

Bao bạn bè xưa còn ở nơi đâu

Có còn nhớ gió Lào lùa bỏng rát

Có còn nhớ cát miền xưa thăm thẳm

Cánh diều vô tư khao khát chân trời?

Dẫu bàn chân ta còn mê mải giữa đời

Thì vẫn cứ mơ hoài về miền quê hương cỏ

Nơi mùa thi, đèn chong bao mắt đỏ

Đón ta về võng gió hát miên man

1995

TRỊNH THÀNH HUY[18]

VỀ THĂM TRƯỜNG CŨ

Lòng bồi hồi về thăm mái trường xưa,

Để tìm lại tuổi thơ qua ký ức,

Bằng lăng tím, khiến tim ai thổn thức,

Cây phượng già, ve vẫn hát mê say.

Tuổi thơ xưa, bao kỷ niệm còn đây:

Ai thương ai mà chẳng dám cầm tay?

Ai đã ép hoa khô không dám tặng?

Yêu làm sao thủa áo trắng, phượng hồng.

Hôm nay về, thỏa mọi nỗi nhớ mong

Vui họp lớp giữa vườn hoa mây trắng,

Ánh mắt bâng khuâng, nụ cười tỏa nắng

Được ôm vào lòng…những bạn cũ, thầy cô…

Em biết rằng cuộc sống không như mơ…

Giữa trường đời mênh mông đầy sóng gió,

Em luôn nhớ lời thầy cô dạy dỗ,

Hãy vững lòng trước thử thách, chông gai…

Bao năm ươm mầm trí thức tương lai,

Nơi trường Phan, thầy cô vẫn thầm lặng,

Với những chuyến đò đi theo năm tháng

Ơn thầy cô, em nhớ suốt cuộc đời./.

A group of people posing for a photo

Description automatically generated

ĐINH THU HIỀN[19]

NỖI LÒNG OI Ả

Thì cũng hết nỗi đợi chờ nắng hạ

Chân ai đi vội vã cuối con đường?

Ôi điên cuồng cái nhớ ngất ngây hương

Một ngày gần thôi khoảng sân trường sẽ vắng.

Để cánh phượng ghé lớp vờ nghe giảng

Thầy viết câu gì trên bảng trắng mênh mông

Thầy viết câu gì ve ơi trông rõ không?

Xin mách lại một nỗi lòng oi ả!

Cồn cào nhớ, trời ơi trưa nắng hạ

Mắt người đưa tan vỡ cả khung trời

Mắt người đưa thầm thầm khóc xa xôi!

Thì cũng hết một thời mong hạ tới

Thì cũng hết những tháng ngày nông nổi

Giấy trắng học trò sẽ gửi trong hư vô

Giấy trắng học trò sẽ rách trong âu lo

Em gánh củi gầy gò vắt vẻo lối

Thì cũng hết những tháng ngày mong mỏi

Cơn đói bây giờ không mẹ gọi chiều hôm

Cơn đói bây giờ khắc khoải xé tim non

Thì cũng hết môi son bằng cánh phượng

Thì cũng hết những tháng ngày mộng tưởng

Mai sẽ về vất vưởng con đường xa

Mai sẽ về đốt hết những bài ca

Nồi cơm muộn mắt nhoà không thể nhớ

Là con điểm thầy từng ghi trong vở

Là mảnh thư tình dang dở phút đầu tiên.

THẦY GIÁO PHAN HUY HUYỀN(*)

MỘT VÙNG KÝ ỨC

Gửi các em học sinh các lớp chuyên Văn các năm đầu của thập kỷ 70

Xin mượn thơ làm cuộc hành hương

Trở lại vùng xưa một mái trường

Chưa kịp ố vàng trang kỷ niệm

Dẫu đời từ bấy lắm phong sương.

… Biết mấy thân thương những tháng ngày

Trường chuyên lớp học dưới vòm cây

Tranh tre, lán dựng che mưa nắng

Hào dọc hầm ngang bốn phía quây.

Cái thuở trai làng ra trận vắng

Chiến tranh còn ngút lửa quê ta

Thơ Kiều bình giữa ban mai nắng

Trong tiếng bom rền phía núi xa.

Rất cực mà vui, tuổi học trò

Nụ cười tan biến mọi âu lo

Bát cơm mì hạt chan canh muống

Nhiều bữa ăn rồi… chẳng biết no?

Lạ cũng thành quen đời tập thể

Nỗi niềm ấm lạnh, tấm chăn chiên

Chụm đầu mỗi tối che đèn học

Khát vọng len vào giấc ngủ yên.

Gian khổ nên càng thêm gắn bó

Thầy thương bầy trẻ sớm xa nhà

Khi trời trở gió phong phanh áo

Khi nắng hè lên đốt thịt da.

Cho những mùa thi xanh ước mơ

Cành cao nao nức phượng giăng cờ

Ròng đêm chong mắt ôn bài vở

Thầm lặng dòng Lam nước vỗ bờ!

… Hơn mấy chục năm rồi đấy nhỉ

Các em ngày ấy giờ nơi đâu

Những con tàu hướng chân trời mới

Đây bến bờ xưa… sóng bạc đầu.

Năm 1995

A building with trees and bushes

Description automatically generated

PHONG LINH[20]

XUÂN NÀY VỀ KHÔNG

Xuân này về không cho tôi gửi lời chào

Người thầy cũ nơi mái trường xưa ấy

Cả bóng bằng lăng như ngày xưa vẫn vậy

Chào hộ tôi bụi phấn vỡ lao xao

Xuân này về không cho tôi gửi lời thưa

Kể thầy nghe đời biết bao vội vã

Nhọc nhằn lắm thay nơi dòng đời đôi ngả

Thời gian nào quay lại những ngày xa?

Xuân này về không cho tôi gửi lời thương

Đến bóng thầy chênh vênh bóng nắng

Chiếc cặp thầy mang đã sờn ngày thêm nặng

Lặng nhìn theo sao biết mấy xót xa

Xuân này về đi đừng như tôi nhung nhớ

Hạ về nhanh lắm, biết khi nào gặp gỡ

Trường còn đó nhưng thầy còn như xưa?

Ai đứng lại giữa hai mùa hoa nở?

Rời trường đi, con tìm kiếm giấc mơ

Bỗng quay lại vội giật mình bỡ ngỡ

Ngày xưa kia con hãy còn bé dại

Chớp mắt thôi đã lớn tự bao giờ…

A group of women in white dresses

Description automatically generated

CÔ GIÁO HOÀNG THỊ HIỀN LƯƠNG[21]

LÀM THẦY…

Làm thầy…

(Viết thay lời những thế hệ thầy cô giáo đã từng là học trò của ngôi trường chuyên hơn nửa thế kỷ nơi xứ Nghệ)

Hoàng Thị Hiền Lương

Gv Trường THPT Chuyên Phan Bội Châu

Hành trình vạn dặm bắt đầu từ những bước chân – Cái khoảnh khắc bước vào cổng trường chuyên của tuổi thanh xuân năm ấy liệu có phải là sự khởi đầu cho hành trình “làm thầy” của chúng tôi…

Gần nửa giáo viên dưới mái trường này là những cựu học sinh, phần nhiều trong đó từng ghi tên mình vào những đấu trường trí tuệ quốc gia, quốc tế. Trong đó, có những người như tôi, chưa từng nghĩ về một ngày quay trở lại nơi đây với dáng vẻ của một người thầy.Thời chúng tôi, những học sinh có thành tích cao trong các kì thi học sinh giỏi chọn con đường sư phạm không nhiều. Tôi nhớ cậu bạn chuyên sinh, với bộ sưu tập huy chương đáng nể, quyết định trở thành thầy giáo trong sự ngỡ ngàng của mọi người. Ngày ấy, khắp các tờ báo đều đăng tin về cậu như một chuyện lạ. Nhưng khi tôi hỏi, cậu ấy chỉ cười và nói: “tớ muốn được giống như thầy giáo chủ nhiệm”. Nhiều người sẽ nghĩ đó chỉ là câu nói bâng quơ của tuổi trẻ, nhưng với chúng tôi, bấy nhiêu thôi là đủ cảm nhận rõ con đường mình sẽ đi. Phan đã thắp sáng thanh xuân của chúng tôi và đánh thức những giấc mơ của tuổi trẻ. “Làm thầy” là con đường chúng tôi mang những tri thức mình học được lan tỏa và truyền cảm hứng cho thế hệ tiếp nối.

A group of people posing for a photo

Description automatically generated

(Gần nửa giáo viên của Trường THPT Chuyên Phan Bội Châu Nghệ An là các cựu học sinh. Ảnh: Nhà trường cung cấp.)

Ngày ấy, bước vào Phan, gần như ai cũng chỉ biết học và vùi đầu vào sách vở, thế giới ngoài kia, chúng tôi đều được “nghe kể” qua lời thầy cô. Hình dung về cuộc đời vuông tròn hiện hữu trong từng bài giảng. Nên đâu đó, một phần tâm hồn của chúng tôi, được viết nên từ trí tuệ và đạo đức của thầy cô. Thầy tôi có nhiều giai thoại, mà đến giờ, bao thế hệ học sinh vẫn truyền tai nhau như những câu chuyện cười. Song ai cũng hiểu rằng, đằng sau những nụ cười đó là tình yêu, sự kính trọng, biết ơn của những đứa trẻ dành cho người cha thứ hai trong cuộc đời mình. Tôi đã tự hỏi, làm sao thầy tôi có thể khiến những tri thức khô khan bỗng trở nên hấp dẫn, kì diệu đến vậy. Từng chút, từng chút một, chúng tôi đã biết cách yêu và say mê môn chuyên của mình qua lời dạy của thầy. Thầy cô đã mở ra cánh cửa của sự học bất tận, và chỉ cho chúng tôi cách sống hết mình với tuổi trẻ bằng con đường chinh phục tri thức. Chỉ cần rạng rỡ như một đóa hoa, bằng trí tuệ, tình yêu, chúng tôi có thể tìm kiếm được hạnh phúc thuộc về mình.

Ngày tôi có được thành quả trong kì thi học sinh giỏi Quốc gia, tôi đã nhìn thấy thầy khóc. Người thầy của bao thế hệ, vẫn còn có thể rơi lệ trước thành công của trò như lần đầu. Tôi nhận ra, thầy đã dành trọn trái tim, tình yêu cho học sinh như chính đứa con của mình. Chỉ có tình ruột thịt mới khiến trái tim dễ buồn vui đến thế. Và tôi hiểu, “làm thầy” là cách trao đi những yêu thương một cách vô tư, trong trẻo, và lương thiện nhất. Chính tài và tâm của thầy đã dạy cho chúng tôi cách trưởng thành đúng nghĩa.

A group of people standing in front of a banner

Description automatically generated

(Những thầy cô năm ấy đã truyền cảm hứng cho chúng tôi được “làm thầy”. Ảnh: Nhà trường cung cấp.)

Hôm nay chúng tôi bước vào Phan, được thầy cô gọi bằng hai tiếng đầy trân quý: đồng nghiệp. Có lẽ hiếm có nơi nào như Trường Phan của chúng tôi, đi giữa sân trường cứ nghe tiếng chào thầy, chào cô của các thế hệ như cảm giác ở trong một gia đình “tứ đại đồng đường” ngày trước. Chỉ có điều, giờ đây chúng tôi cùng nắm tay thầy cô của mình như những người cộng sự trên hành trình chinh phục các đỉnh cao tri thức. Sự tiếp nối các thế hệ ở Trường Phan đã truyền cho học trò nơi đây tình cảm ân tình, ân nghĩa, sự khiêm nhường, cầu thị. Văn hóa Trường Phan cứ thế thấm vào tâm hồn của mỗi người và nâng bước chúng tôi trên đường đời. Và dù ở đâu, chúng tôi đều cố gắng sống thật bản lĩnh và tử tế để xứng đáng là học trò của thầy cô, của Trường Phan thân yêu. Thầy tôi gọi đó là danh dự, lòng tự trọng của một “Phan nhân”.

A group of people standing in front of a building

Description automatically generated

(Khi thầy trò trở thành đồng nghiệp, chúng tôi đã cùng nhau chinh phục các đỉnh cao tri thức. Ảnh: Nhà trường cung cấp.)

Trường Phan của chúng tôi đang từng bước chuyển mình để vươn lên một tầm cao mới. Thầy cô năm ấy đều chọn lùi về phía sau, làm bệ phóng cho những giáo viên trẻ khẳng định bản thân và thích ứng với thời đại hội nhập. Chúng tôi được thăng hoa trong sự nghiệp bởi sự “bảo lãnh” về thương hiệu của thầy cô. Áp lực của ngôi trường với bề dày thành tích hơn nửa thế kỷ đôi khi khiến chúng tôi sợ hãi, chùng chân. Nhưng bởi sau lưng luôn có sự bao dung, vị tha của thầy cô, mà chúng tôi dũng cảm để bước tiếp. Cứ thế chúng tôi đã cùng Phan nối dài những giấc mơ của sự học. Hy vọng rằng, những học trò của chúng tôi sẽ cảm nhận được các lớp trầm tích trí tuệ của ngôi trường thân yêu, để kiêu hãnh, tự hào, và tỏa sáng. Biết đâu một ngày nào đó, chúng lại ao ước được “làm thầy” giống như chúng tôi ngày ấy. Và những giá trị của ngôi trường chuyên xứ Nghệ sẽ được truyền từ đời này qua đời khác như một thiên sử thi dài bất tận…

NGUYỄN HOÀNG MAI[22]

TRƯỜNG XƯA

Nếu về thăm trường cũ

Mình sẽ vào lớp xưa

Tìm trên bàn nét chữ

Màu mực đã nhạt chưa?

Nếu về thăm trường cũ

Nhìn qua cửa sổ xưa

Sẽ thấy khung trời nhỏ

Có cây xanh bốn mùa

Nếu về thăm trường cũ

Mình nhớ đến hồi xưa

Có cúc vàng mấy độ

Cánh hoa rơi như mưa…

Nếu về thăm trường cũ

Đứng dưới tượng cụ Phan

Chỉ im lặng một phút

Mình bé nhỏ vô vàn

Nếu về thăm trường cũ

Mình sẽ gặp thầy, cô

Thân thuộc như nỗi nhớ

Yêu thương tự bao giờ!

Nếu về thăm trường cũ

Gặp cô bé ngây thơ

Như chúng mình thủa ấy

Sẽ bất chợt ngẩn ngơ…

Nếu về thăm trường cũ…

HOÀNG THỊ HỒNG NGA[23]

PHAN TRONG TÔI, HƠN CẢ MỘT MÁI TRƯỜNG…

Tôi xin được mượn hai câu thơ của nhà thơ Chế Lan Viên để nói lên tình cảm của mình đối với mái trường THPT Chuyên Phan Bội Châu, một phần ký ức, một phần tâm hồn trong tôi cũng như các thành viên của lớp C2-K28- chuyên Sử Địa (1999-2002).

Phan trong tôi là hình ảnh cánh cổng trường bao nhiêu năm dù có nhiều thay đổi, câu thơ “Khi ta ở chỉ là nơi đất ở/ Khi ta đi đất đã hóa tâm hồn” gắn với cánh cổng ấy vẫn còn mãi với thời gian, với hoài niệm của chúng tôi, những Phan nhân bao thế hệ. Cánh cổng trường ấy từng đã là cả một bầu trời ước vọng phía trước đối với chúng tôi khi đã đạt được ước mơ đậu Phan. Nay dù đã hằn những dấu vết thời gian, đã hơn 20 năm từ ngày tốt nghiệp cấp ba, nhưng sau cánh cửa ấy vẫn vẹn nguyên cả một bầu trời đẹp đẽ nhất trong 12 năm của tuổi học trò.

Tháng năm tuổi học trò là khoảng thời gian để nhớ, để thương. Để ta cùng nhau vẽ lên những kỷ niệm ngây ngô với những người bạn và mái trường. Có lẽ ở nơi này là nơi dành cho ta chia sẻ niềm vui, nỗi buồn chẳng phải lo lắng hay bận tâm về những bộn bề cuộc sống. Đối với chúng tôi – những thành viên của C2-K28, ngôi trường THPT Chuyên Phan Bội Châu không chỉ là một mái ấm đã cho chúng tôi biết được thế nào là sự ấm áp của tình thầy cô, bạn bè, mà hơn thế nữa đó là những trang ký ức sáng lấp lánh sự kiêu hãnh của những cựu học sinh chuyên danh giá.

Tôi có thể viết gì về trường cũ? Những ý nghĩ của tôi tản mạn, và nếu viết, phải viết một câu chuyện dài, một cuốn sách như Tottochan đã viết về ngôi trường – đoàn tàu của cô bé. Ký ức cứ chậm chậm ùa về như những thước phim quay chậm…

Tôi sẽ không bao giờ quên được cảm giác bỡ ngỡ khi đứng trước cửa lớp 10C2 đợi giờ vào lớp lần đầu tiên. Tôi nhìn những bạn bè trước cửa, cũng ngơ ngác và xa lạ. Kỷ niệm của ngày đầu gặp nhau tại trường Phan chắc chắn là giây phút được gặp cô chủ nhiệm cấp 3. Câu chuyện về buổi gặp gỡ đầu tiên đã trở thành “điển tích” của chúng tôi sau này mỗi lần gặp nhau. Đó là câu chuyện kinh điển của Dung Nhi khi nhìn thấy cô giáo chủ nhiệm nhưng lại tự lẩm bẩm tự hỏi răng lớp lại có đứa mô mà ăn diện rứa? “Điển tích” đó để minh chứng cho độ trẻ trung của cô giáo chúng tôi – người thách thức mọi giới hạn của thời gian. Cho đến bây giờ, không có bất cứ một khứa nào trong C2-K28 có thể có năng lực lọt vào vòng gửi xe để có khả năng đọ sắc, đọ trẻ với “người đẹp không tuổi” của chúng tôi – Cô Lê Lương Tâm.

Lớp chúng tôi năm đó là lớp chuyên Sử – Địa nhưng khá đặc biệt khi cô giáo chủ nhiệm lại là cô giáo dạy Văn. Tôi và đa số chúng tôi đều cảm thấy điều đó khá may mắn vì đa số chúng tôi từ cấp 2 đều trưởng thành từ các bạn chuyên Văn. Còn khóa chuyên Sử – Địa của chúng tôi tại thời điểm đó mới chỉ là khóa thứ 2. Nếu tôi nhớ không nhầm thì lớp chúng tôi cũng khóa đầu tiên mà cô giáo của chúng tôi nhận cương vị chủ nhiệm lớp. Với một áp lực khá lớn khi mới làm chủ nhiệm, cô của chúng tôi hồi đó khá lạnh lùng và sắt đá. Chúng tôi những đứa bé của thời trẻ trâu có những lúc muốn làm theo ý mình đã có cảm thấy phẫn uất trước những quyết định cứng rắn và kỷ luật sắt của cô. Cô truyền cho chúng tôi những thông điệp về sự nỗ lực, cố gắng và tính đoàn kết, kỷ luật. Đến bây giờ, khi chúng tôi đã lớn lên, trưởng thành, mỗi đứa đều có những đứa con để nuôi dạy, đặc biệt với những đứa làm nghề giáo viên thì chúng tôi hoàn toàn thấm thía hiểu và lý giải những câu hỏi tại sao. Những chiêm nghiệm về năm tháng bên cô đã trở thành bài học hành trang cho mỗi chúng tôi trên chặng đường đời quá khứ, hiện tại và tương lai.

Cứ mỗi mùa thu qua đi, với những cựu Phan như tôi và các bạn, mỗi lần ngang qua ngôi trường cũ, những dòng kỷ niệm cứ liên hồi chảy qua trong tâm trí chúng tôi. Tôi vẫn nhớ mãi cái sân trường đầy bóng mát cây bằng lăng cùng với tiếng trống ngân vang quen thuộc, nhớ dãy hành lang đầy hoa cúc vàng phải gánh biết bao là nỗi thương nhớ tuổi học trò, nhớ những lời giảng dạy của thầy cô khi còn ngồi trong một lớp học tuy nhỏ nhắn nhưng lại chứa chan kỷ niệm đẹp của một thời niên thiếu và nhớ cả giờ ra chơi cùng nhau túm năm tụm ba vui đùa khắp cả một sân trường. Phan trong chúng tôi là những mảnh ký ức ngọt ngào về 28 thành viên của tập thể lớp c huyên Sử Địa K28. Mỗi đứa một cá tính, một màu sắc khác nhau nhưng chúng tôi chung nhau một mái ấm C2- K28. 25 nàng tiên và 3 mì chính cánh. Lưới sắt của gái C2 rất “siêu hạng” không để thoát đi đâu được 2 trong số 3 mì chính cánh của lớp tôi. Thế mới biết rằng sức hút của gái C2 kinh khủng cỡ nào. Ngoài ra, các “nàng hậu” C2 cũng đã từng làm điêu đứng biết bao nam nhân các lớp chuyên Lý, chuyên Toán, chuyên Sinh… Các mối tình đó có mối tình đã đơm hoa kết trái ngọt lành, có mối tình dang dở, nhưng tất cả đã trở thành hoài niệm không thể quên được, trở thành gia vị cho những buổi gặp mặt của chúng tôi sau 10 năm, 15 năm, 20 năm và về sau này nữa thêm đậm đà, thêm thật nhiều “muối”…

28 con người đó – chúng tôi đã cùng nhau chèo chống để sóng sót qua những tiết học Toán đầy rẫy bài tập của cô Bê (có những đứa lên bảng giải bài với bàn tay đầy con số, phép tính…), những tiết học Lý đầy siêu hình, siêu thấu kính, quy tắc bàn tay trái, bàn tay phải, từ trường của thầy Trần Văn Nga và cô Thơ An rất xinh đẹp; những tiết Hóa với lý thuyết sặc mùi của sunfuric, của nước mắt H2O của đồng, bạc, thủy ngân… tính số mol và cân bằng phương trình phản ứng cùng giọng giảng bài rành rọt, chắc nịch của cô Lan; những tiết Sinh học của thầy Mộng Lai (mà chúng tôi gọi đùa là anh trai của bạn Huế…); những tiết Anh với thầy giáo Phan Chí Nghĩa… Sống sót qua các tiết học và các bài kiểm tra các môn tự nhiên trở thành những kỷ niệm khó phai với những đứa chuyên xã hội. Những ngôi sao tự nhiên nổi lên như cồn, trở thành những chỗ dựa vững chắc cho chúng tôi: Kim Ngân, Hải Lê, Thế Phương, Diệu Hồng… trong các tiết kiểm tra đầy thử thách. Những kỷ niệm đó đã làm nên dư vị của tình thân, tình đồng đội vượt qua chông gai của C2-K28.

Ba năm thanh xuân cùng Phan thật đẹp, thật ấm áp, thật hồn nhiên nhưng cũng thật nhanh trôi. Ngân vang trong bầu trời tuổi trẻ là những ký ức, những kỷ niệm của năm 18 tuổi. Ba năm cấp ba không quá dài để có thể lưu hết những kỷ niệm nhưng cũng chẳng ngắn để những kỷ niệm ấy cứ mãi vụt trôi. Những tháng ngày đội tuyển đối với một học sinh chuyên là một trong những quãng thời gian khó quên nhất: vui có, buồn có, lo lắng có và áp lực cũng có. Đối với học sinh đội tuyển, ba năm cấp ba những kỉ niệm với lớp sẽ chịu thiệt ít nhiều nhưng ở đó lại có đủ những cung bậc cảm xúc khác nhau. Những câu chuyện dở khóc dở cười, những người thầy cô giáo tâm huyết như thầy Nam, thầy Phúc, thầy Lữ…miệt mài đầy kinh nghiệm, những buổi học không biết giờ giấc, những tập tài liệu xếp cao vun vút, những ngày học chuyên gia đầy lo âu…Tháng ngày đội tuyển là tháng ngày “làm bạn” với đống đề thi, với “kho” tài liệu dày đặc chữ, với lời kêu than của những “chú lười” hơn hết là những lời động viên của bố mẹ, thầy cô và bạn bè. Kỷ niệm với đội tuyển có lẽ là một cuốn sách mà lật mãi cũng chưa đến hồi kết. Kỷ niệm ấy đã nuôi dưỡng tâm hồn chúng tôi, đưa chúng tôi đi qua những nấc thang cảm xúc của tuổi trẻ, đưa tôi đi qua những tháng ngày đẹp nhất, tuyệt vời nhất. Cảm ơn vì đã là một mảnh ghép trong bức tranh thanh xuân của tôi và các bạn dưới mái nhà Phan.

Chắc hẳn những ngày tháng này, hòa trong không khí háo hức, vui tươi khi ngày kỷ niệm 50 năm thành lập trường, 60 năm hệ chuyên và đón nhận Huân chương Độc lập hạng Nhì sắp đến, những cựu học sinh như tôi cũng không kém phần hồ hởi, niềm tự hào, hãnh diện. Tháng năm bên Phan – “Phan là nhà” sẽ luôn khắc ghi trong trái tim chúng tôi, để dù đi đâu về đâu, trường Phan vẫn luôn là một điểm tựa, một nguồn động lực tinh thần để chúng tôi cố gắng. Có những lúc, giữa bộn bề cuộc sống những hình ảnh của Phan sẽ lẫn vào thời gian và chính chúng tôi C2 – K28 tùy mỗi hoàn cảnh đứa ở gần ngay trong thành phố, có đứa ở xa Phan đến hàng trăm, hàng nghìn cây số, có khi cả hàng vạn dặm đại đương… Nhưng tôi tin rằng những gì thuộc về kỷ niệm thì vẫn luôn đọng lại đó, nơi trái tim tôi, trái tim những người bạn, nơi bục giảng ấy, lớp học ấy, sân trường ấy, không bao giờ biến mất. Và những thế hệ học trò sau này, những người sẽ tạo nên những thành tích mới, những niềm tự hào mới cho Phan, chắc hẳn cũng sẽ như tôi, như những người anh người chị đi trước, như những ai đã “trót” yêu nơi này nhiều đến vậy.

50 năm thành lập trường; 60 năm hệ chuyên – một chặng đường thật dài và cũng đủ để mỗi con người từng gắn bó với Phan tự hào khi nhìn lại. Là những cựu Phan, chúng tôi luôn mong Phan vẫn sẽ tiếp nối những gì đã đạt được trong học tập, trong hoạt động,… Và dẫu 60 năm, 70 năm hay nhiều hơn nữa, Phan vẫn sẽ là ước vọng, là khát khao của những cô cậu học trò còn ngồi trên ghế cấp 2, là một thế giới đầy thú vị và mới lạ với những người yêu và muốn khám phá, là nơi phát triển tiềm năng và dạy cho mỗi con người biết nỗ lực, cố gắng hết mình trong bất cứ điều gì,…

Phan trong tôi, hơn cả một mái trường…

A gate with purple flowers and trees

Description automatically generated

TRẦN ANH NGHĨA[24]

KÝ ỨC VỀ MÁI TRƯỜNG PHAN BỘI CHÂU

“Dẫu mai đi mọi phương trời
Những lời thầy dạy đời đời không quên
Trường Phan ai đã học nên
Năm mươi năm đó biết bao ân tình”

A group of people posing for a photo

Description automatically generated Hướng về Lễ Kỷ niệm 50 năm thành lập Trường, 60 năm hệ Chuyên và đón nhận Huân chương Độc lập Hạng Nhì của trường THPT Chuyên Phan Bội Châu, mà thấy trong lòng xao xuyến, bồi hồi, xúc động. Nhớ dịp Kỷ niệm 20 năm thành lập vào năm 1994, tôi còn học lớp 11, làm Bí thư Đoàn trường nên có vinh dự ngồi trên lễ đài. Dịp kỷ niệm 30 năm thành lập vào năm 2004, tôi cũng quay về trường dự lễ khi là giảng viên trường Đại học Vinh, còn dịp kỷ niệm 40 năm thành lập vào năm 2014, tôi đang đi học ở nước Nga xa xôi dù không về được nhưng cũng có nhiều bài viết ký ức về trường. Lần này kỷ niệm 50 năm thành lập, tôi sẽ trở về mái nhà thanh xuân của tuổi học trò để gặp lại các thầy cô giáo cũ và hội ngộ cùng các bạn bè ngày đó.

Bắt đầu vào mùa hè 1992, vừa học xong lớp 8 ở trường THCS Lê Lợi – thành phố Vinh với danh hiệu học sinh giỏi tỉnh thì tôi nhận được giấy mời đến trường Phan làm thủ tục và ôn thi, ngày đó chỉ có học sinh đạt học sinh giỏi tỉnh mới được thi vào trường. Dù nhà cách trường cũng chỉ 3km, nhưng lần đầu đến trường thấy một cảm giác khó tả, đó là nhìn cây cối bao quanh um tùm, nhà cửa thưa thớt, giống như ở ngoại thành vì khi đó khu vực này còn hoang vắng chưa phát triển như bây giờ. Sau kỳ thi căng thẳng, cuối cùng tôi cũng được vào học lớp 9 chuyên Lý khoá 22 của trường, do thầy giáo Đinh Hưng An làm giáo viên chủ nhiệm, cùng với các bạn khác đến từ các vùng quê xứ Nghệ. Khóa 22 được hình thành như vậy với 3 lớp chuyên Toán, Lý, Văn gần 90 bạn. Vào học với khóa 20 đang lớp 11, khóa 21 đang lớp 10 mà không thấy có lớp 12, sau này mới hiểu đó là thời gian thay đổi bậc học từ 8 lên 10 nên trường không có khoá 19. Vì được học lớp 9 với cả trường chỉ có 11 lớp nên các anh chị em trong trường hầu như quen biết nhau, dù thời gian học cũng căng thẳng và chiếm nhiều thời gian nhưng không thể thiếu được những hoạt động đoàn thể, sinh hoạt tập thể cùng bên nhau trong những ngày lễ, ngày nghỉ. Đặc biệt là dịp 26/03, cả trường được cắm trại 3 ngày với bao nhiêu kỷ niệm đáng nhớ của tuổi học trò còn dại khờ. Nhưng rồi khóa 22 lại phải tập trung để ôn thi tốt nghiệp, chuyển cấp và tiếp tục thi chọn vào lớp 10 của trường. Cuối cùng với những nụ cười và xen lẫn nước mắt, tiếc nuối, khóa 22 đã có thêm những khuôn mặt mới và chia tay với những người cũ, để rồi ổn định đi tiếp chặng đường 3 năm tại mái trường.

Năm học lớp 10 của khóa 22 với gần 90 bạn cho 3 lớp, chuyên Toán do thầy giáo Thái Viết Thảo chủ nhiệm, chuyên Lý do thầy giáo Đinh Hưng An chủ nhiệm và chuyên Văn do thầy giáo Lê Thái Phong chủ nhiệm và được dạy dỗ bởi các Thầy Cô giáo đã lớn tuổi và có uy tín của trường như thầy giáo Đinh Văn Thông – Hiệu trưởng, thầy giáo Nguyễn Hữu Đắc (đã mất) – Hiệu phó, thầy Huấn (đã mất), thầy Bỉnh, thầy Tĩnh, thầy Thảo dạy Toán; Thầy An, thầy Thảo, thầy Củng dạy Lý; Thầy Dương (đã mất), thầy Phong, thầy Hoành, thầy Phú, cô Diệp dạy Văn; Thầy Kiên (đã mất), thầy Bình dạy Hóa; Cô Nghĩa, thầy Thuyên dạy Sinh; Thầy Kiêm dạy Sử (đã mất); Thầy Minh dạy Địa, Thầy Quỳnh dạy GDCD (đã mất); Thầy Dũng dạy Thể dục; Thầy Hồ dạy Nga; Cô Liên dạy Anh… Và còn rất nhiều các thầy cô giáo khác nữa mà tôi không nhớ được hết, mong các Thầy Cô lượng thứ. Suốt 3 năm học, được sự dạy dỗ chỉ bảo tận tình của các thầy cô giáo, mà tôi cũng như các bạn đã được cung cấp thêm nhiều kiến thức, được rèn luyện và trưởng thành, được giúp đỡ để định hình nhân cách và lối sống của mỗi người. Có thể nói trong đời mỗi người, quá trình học cấp 3 là giai đoạn quan trọng nhất, là thời gian đáng nhớ nhất, và những học sinh được học dưới mái trường Phan thân yêu là những người có diễm phúc và may mắn nhất. Bởi vì dù trong điều kiện còn khó khăn vất vả, còn thiếu thốn cơ sở vật chất, nhưng chúng tôi đã được các thế hệ thầy cô giáo tận tình quan tâm, hướng dẫn học hành, chăm sóc chu đáo và giúp đỡ hết mình trong học tập và trong cuộc sống. Lúc đó tình cảm thầy trò như gắn vào một khối thống nhất đoàn kết, để cùng nhau vươn lên, giữ vững và phát huy được truyền thống của nhà trường. Nhờ đó mà mỗi thế hệ học sinh ra trường đều trưởng thành, có kiến thức vững vàng, có bản lĩnh tự tin để bước vào đại học, vào cuộc sống xã hội sau này. Điều đặc biệt đáng quý, dù đi đâu, gặp ai, dù đã gặp qua hoặc mới biết là dân Phan thì đều có cảm giác gần gũi, trân trọng, chân thành và tình cảm. Hồi đó dân số Phan chưa nhiều nên hầu như đều nhớ mặt nhau, dù không quen thân nhau nhưng sau này ra ngoài gặp là nhận ra dân Phan ngay. Còn sau này với sự phát triển và mở rộng về quy mô nên cũng rất khó để có được điều đó. Mặt khác, cũng vì ít chuyên nên mỗi chuyên Toán, Lý, Văn hay Ngoại ngữ thì đều có một đặc trưng riêng, hay có thể gọi là phong cách riêng, đặc điểm riêng đã in sâu vào cuộc đời của mỗi người. Trong 3 năm đó, tôi cũng như các bạn đều cố gắng phấn đấu học tập tốt, rèn luyện tốt, tham gia tích cực vào các hoạt động đoàn thể, góp phần xây dựng trường, dù nhiều khi vẫn còn nhiều thiếu sót, còn có nhiều khuyết điểm, còn có nhiều nỗi buồn khi không đạt được yêu cầu đề ra của các thầy cô và nhà trường, mà đến bây giờ mỗi khi nghĩ lại, chúng tôi chỉ biết ân hận và thấy có lỗi với các thầy tô cùng nhà trường rất nhiều. Về học tập, chúng tôi đã không làm tốt để rạng danh cho mái trường, mà về các hoạt động khác thì chúng tôi lại quá nghịch ngộ, làm ra nhiều trò đùa tai hại và nhiều khi còn hơi thái quá để ảnh hưởng đến các thầy cô, đến nhà trường. Trong thâm tâm chúng em biết không có dịp nào được nói hết lời từ trong lòng mình tới các thầy cô và trường, nên nhân dịp này chúng em gửi tới các thầy cô giáo và mái trường thân yêu lời xin lỗi chân thành và sự biết ơn sâu sắc tới các thầy cô đã bao dung, độ lượng và giúp đỡ chúng sửa chữa sai lầm, dạy dỗ rèn luyện cho chúng em vượt qua khó khăn để có được A group of people posing for a photo

Description automatically generated như ngày hôm nay.

Trên trang giấy này, không thể diễn đạt hết được những kỷ niệm về mái trường và về ký ức không phai mờ trong thời gian học tập tại trường. Ngoài những thành tích nhỏ bé về kết quả học tập, thì những hoạt động phong trào, sinh hoạt cộng đồng đoàn thể chính là những dấu ấn đậm nét trong tâm hồn chúng tôi. Vào những dịp kỷ niệm các ngày lễ như 20/11, 8/03, 26/03, 19/05,… các hoạt động bóng đá nam nữ, bóng chuyền nam nữ, cầu lông, bóng bàn, các trò chơi, các hoạt động văn nghệ múa hát đã làm dậy sóng hàng ngày, hàng đêm của thầy trò trường Phan. Đặc biệt cứ đến 26/03 là toàn trường cắm trại với ba ngày hai đêm mà xem như cả tháng 3 đều tập trung cho sự kiện “vui chơi” đó mà việc học hầu như gián đoạn, lại rơi vào kỳ thi học sinh giỏi, vì do mãi “vui chơi” nên dẫn đến kết quả không cao như mong muốn. Nhưng bù lại, bốn năm dưới mái trường với bốn lần cắm trại đã đem lại cho chúng tôi nhiều kỷ niệm không thể nào quên, những tình cảm gắn kết tình thầy trò bên lửa trại, những “mối tình học trò” xuất hiện trong hội trại dưới những cơn mưa và còn nhiều điều khác mà không thể kể ra được hết… Rồi trò đùa “té nước” vào nhau khi đến hè chia tay năm học của khóa 22 đã được thế hệ sau nhân rộng trở thành “món chơi” truyền thống vào dịp bế giảng năm học. Đặc biệt, chúng tôi vinh dự là “chủ nhà” dịp Lễ Kỷ niệm 20 năm thành lập trường vào năm 1994.

A person standing at a podium

Description automatically generated Suốt bốn năm học, tôi cũng như các bạn đều yêu quý, kính trọng và gần gũi với các thầy giáo chủ nhiệm, là người thầy dìu dắt, chịu trách nhiệm và quản lý chúng tôi, các thầy cùng vui khi chúng tôi có thành tích và trưởng thành, các thầy cũng đã buồn, rơi nước mắt trước những kết quả không tốt, những sai lầm tuổi học trò gây ra làm ảnh hưởng đến các thầy và nhà trường. Dù sau bao năm phiêu bạt vào cuộc sống, dù chúng tôi đi đâu làm gì thì các thầy luôn in sâu đậm trong trái tim mỗi người, mỗi khi chúng tôi trở về đều mong muốn được gặp lại các thầy nhiều nhất. Các thầy như là người cha, người mẹ của mỗi chúng tôi. Ngoài ra, ấn tượng nhiều nhất đối với tôi là thầy giáo Đinh Văn Thông, Hiệu trưởng trường, người mà chúng tôi đều khâm phục, ngưỡng mộ về nhân cách, năng lực và gia đình của thầy. Tôi có vinh dự và may mắn làm Bí thư Đoàn trường hơn 2 năm (1994-1996), là học sinh được làm Bí thư Đoàn trường theo quy định tổ chức của Tỉnh đoàn vào thời gian đó vì sau này thì chỉ có giáo viên mới được làm Bí thư. Còn cô giáo Đinh Lệ Thanh con gái thầy, làm Phó bí thư, nên tôi cũng được tiếp xúc nhiều với thầy thông qua công việc và hiểu thêm về Thầy. Thầy là tấm gương mà tôi cần phải học tập, về đức độ, về quản lý, về phương pháp điều hành trong công việc và tổ chức thực hiện. Có thể nói rằng, thầy là người đã đặt nền móng đầu tiên và cùng các thế hệ các thầy cô giáo của trường đã xây dựng, giữ gìn và phát triển để có được mái trường như ngày hôm nay. Sau khi khóa 22 tốt nghiệp năm 1996, thì các thầy cô giáo lâu năm, uy tín của trường đã đến tuổi về hưu, khép lại chặng đường gian khó, hình thành và phát triển của trường mà các thầy cô đã có nhiều công lao vun đắp. Dù tiếc cho các khóa sau không được học, được biết về các thầy cô giáo cũ, nhưng cũng là quy luật vận động phát triển, các khóa sau lại được đón nhận những thầy cô giáo trẻ hơn, nhiệt huyết hơn, hoài bão hơn về công tác, để mang lại sức sống mới, diện mạo mới trên hành trình mới với những thành tích mới cho mái trường Phan thân yêu.

Mới đó đã thấm thoắt gần 30 năm, chúng tôi rời xa mái trường, dù tung cánh muôn phương nhưng trong lòng chúng tôi đều hướng về mái trường Phan, dõi theo các hoạt động của trường, cùng vui với những thành tích của trường và chia sẻ các thông tin liên lạc về trường, về các thầy cô giáo. Để kết nối các thế hệ học sinh trên mọi miền, Ban chấp hành Hội liên lạc cựu học sinh đã được thành lập và hoạt động ở thủ đô Hà Nội và phía Bắc, ở thành phố Hồ Chí Minh và phía Nam, ở xứ Nghệ và vùng lân cận. Đứng trước những thay đổi, chuyển biến của thời cuộc và xã hội, để đáp ứng cho thời kỳ mới, thời kỳ phát triển và hội nhập, Trường cũng đã có những cuộc cách mạng để mở rộng quy mô, tăng thêm các lớp chuyên, hoàn thiện xây dựng cơ sở vật chất, đồng thời nâng cao chất lượng giảng dạy và học tập. Chặng đường 50 năm mà trường đi qua, dù đã có nhiều thành công, nhiều thành tích xuất sắc trong đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, làm rạng danh học trò xứ Nghệ trong cả nước và trên quốc tế, nhưng vẫn còn có những khiếm khuyết cần được hoàn thiện hơn để xứng đáng với mái trường mang tên Người chí sĩ yêu nước Phan Bội Châu, trên quê hương của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Tôi và những thế hệ học trò đã rời xa mái trường luôn ủng hộ và đồng hành cùng trường đi mãi theo tháng năm và cũng mong muốn gửi tới trường, dù phát triển về quy mô, mở rộng về số lượng nhưng trường phải lấy chất lượng học sinh làm thước đo hàng đầu. Phải có chiến lược đào tạo nhân lực và bồi dưỡng nhân tài hợp lý, khoa học và tiến bộ để có thêm nhiều học sinh đạt giải trong các kỳ thi Quốc tế, khu vực và quốc gia. Ngoài ra tăng cường cho học sinh tham gia các hoạt động xã hội, các cuộc thi truyền thông để nâng cao sự hiểu biết đa dạng và phong phú cho học sinh. Mục đích đào tạo được những học sinh “vừa hồng, vừa chuyên”, giỏi về kiến thức và hiểu biết về xã hội, có đóng góp thiết thực cho cuộc sống. Chính điều đó sẽ tô đẹp thêm cho truyền thống của nhà trường, đồng thời phải định hình và khẳng định về “Phong cách trường Phan”, nổi bật và sáng ngời về “Văn hóa trường Phan”. Ngoài ra, Ban chấp hành hội và nhà trường cần có sự thống nhất, bàn bạc để thành lập quỹ mang tên “Quỹ Khuyến học trường Phan” nhằm mục đích động viên, quan tâm, giúp đỡ và trao tặng học bổng đến các học sinh khi đạt các thành tích cao trong học tập và công tác đoàn thể, có đóng góp thiết thực cho cộng đồng xã hội; đến các học sinh gặp hoàn cảnh khó khăn éo le đã vươn lên trong học tập, hay là những học sinh gặp những số phận không may mắn… Đây là một hoạt động có ý nghĩa mà các thế hệ trò Phan cùng nhau đóng góp, xây dựng và phát triển cho nhà trường và cho xã hội.

A group of people posing for a photo

Description automatically generated

Nhân dịp Trường kỷ niệm 50 năm, tôi xin gửi tới mái trường lòng biết ơn, niềm vinh dự và sự tự hào khi được học tập dưới mái trường. Kính gửi tới các thầy cô giáo sự tri ân, lòng ghi nhớ về công lao dạy dỗ chúng tôi. Kính chúc các thế hệ học sinh thành đạt trong sự nghiệp, hạnh phúc trong cuộc sống, xứng đáng với danh hiệu học trò trường Phan. Chúc cho mái trường thân yêu, đạt thêm nhiều thành tích cao, nhiều danh hiệu quý, làm vẻ vang cho truyền thống của trường, rạng danh trường THPT Chuyên Phan Bội Châu, mang lại vinh quang cho quê hương xứ Nghệ và đất nước Việt Nam./.

Tp. Vinh, ngày 8/8/2024

LÊ THỐNG NHẤT

BẢN NHẠC

        1. TỰ HÀO TRƯỜNG PHAN
        2. HẸN NHAU VỀ NHÉ! TRƯỜNG PHAN LÀ NHÀ

CÔ GIÁO TRẦN THỊ MINH NGUYỆT

MÌNH ĐÃ NHẬN ĐƯỢC GÌ TỪ PHAN

Mấy hôm nay các Phan nhân đồng loạt cùng nhau thay Avarta zalo, FB để chào mừng Phan tròn 60 năm hệ chuyên, 50 năm thành lập và đón nhận Huân chương độc lập Hạng nhì, đồng thời tỏ lòng tri ân đến trường – nơi đã cho mỗi người một kí ức thanh xuân tuyệt đẹp và một hành trang vào đời đầy hi vọng. Mình cũng là Phaner nhưng mình chưa thay ảnh đại diện trang cá nhân của mình (mặc dù đã thay ảnh đại diện cho nhóm lớp). Không phải mình không yêu trường, cũng không phải vì Phan có ít kỉ niệm với mình, mà ngược lại! Mình muốn dành một khoảng thời gian của nhà “tỷ phú” để ngẫm lại xem Phan đã cho mình những gì?! Câu hỏi này mình đã nghĩ rất nhiều, nhất là những khi đọc những bài viết về trường chuyên lớp chọn. Nhưng nay ở tuổi U70, chắc câu trả lời sẽ trọn vẹn hơn chăng?

Mình đến với Phan từ rất sớm. Vì trước khi chính thức trở thành Phaner thì mình đã được bố và anh trai mình kể rất nhiều câu chuyện thú vị về con người của Phan. May mắn hơn nữa mình lại được quay lại Phan, được trở thành đồng nghiệp của các thầy cô giáo cũ của mình. Mình đã nhận của Phan quá nhiều, đúng không?

Nhưng cái mà mình học được nhất ở Phan (ngoài kiến thức văn hóa) thì chắc chắn đấy là tình người!

Khi còn là học sinh K7 ở Hưng Lộc đầy gió Lào và cát trắng, Phan đã dạy mình phải biết chia sẻ niềm vui, khó khăn và cả nỗi buồn của người khác: cô giáo sinh em mà cả trường đều biết, đều chung vui. Cô giáo ốm cả thầy và trò chia nhau đi trực ở bệnh viện, chăm cô ngày nọ qua ngày kia cho đến khi cô qua đời. Mình biết chia sẻ với bạn miếng cơm khi xoong cơm của các bạn là hạt bo bo hay ngô hột còn nguyên vỏ… Vui buồn cùng nhau, dậy thì cùng nhau, kí ức thanh xuân luôn có nhau. Tình thầy trò, tình bạn đó theo mình mãi đến tận bây giờ, để khi mỗi lần có cơ hội gặp thầy cô giáo cũ, gặp lại bạn xưa là đủ thứ chuyện trên đời không hết!

Người ta bảo cuộc sống đổi thay thì con người cũng thay đổi. Nhưng cái tình của các Phan nhân thì không!

Khi mình trở về trường, được đứng trên bục giảng, tiết học đầu tiên cho học sinh khóa mới bao giờ cũng là câu chuyện của các Phan nhân đi trước. Mình muốn học sinh mình hiểu được các thế hệ đi trước họ đã sống và học tập thế nào? Cái gì đã giúp họ thành công trong cuộc sống?

Hôm nay mình muốn nhắc lại câu chuyện về một người, đúng ra thì không thể gọi là Phaner, nhưng người đó lại mang đến cho các cựu Phan các khóa đầu thế kỉ 21 này rất nhiều kỉ niệm. Và hơn nữa vì người đó mà mình, các Phaner và cả người ngoài Phan đều hiểu rõ hơn chữ tình của Phan.

Đó là bác Phú, người đã gắn bó với công việc bảo vệ trường 15 năm (từ đầu những năm 2000 đến năm 2018). 15 năm với một đời người không phải là ngắn! Nhà bác lại ở xa, tận ngoài Diễn Châu, nên Phan là nhà của bác. Các học sinh Phan thời đó chắc không ai quên được bác bảo vệ người gầy gầy cao cao, ít nói mà hay cười tủm tỉm. Mình rất thích nhìn thấy hình ảnh các em học sinh đi qua chào bác: Chào bác Phú! Đáp lại bao giờ cũng là nụ cười và một câu hỏi thăm nào đó.

Những hình ảnh đẹp đó cứ hàng ngày diễn ra, quen thuộc đến nỗi không ai nghĩ đó là đều quí giá. Chỉ đến khi một tin dữ đến: bác Phú bị ung thư rồi! Sao lại có thể như vậy? Bác vẫn ngày ngày làm việc của mình, vẫn đến các lớp sửa bàn, sửa bóng đèn khi cần cơ mà? Mình nhớ khi biết tin đó, mọi người trong trường rất buồn và lo cho bác. Nhưng bác vẫn cười và nói: chắc không can chi mô, tôi vẫn thấy người khỏe bình thường, chỉ thấy đau trong xương thôi.

Nhưng đến khi cơn đau đến dày hơn thì bác phải nghỉ việc để đi điều trị. Mọi người ai cũng biết gia đình bác ở quê rất khó khăn, giờ bệnh tật lấy tiền đâu để chạy chữa? Khi đó mình đang làm cán bộ công đoàn, cùng bàn với BGH, BCH Công đoàn và các đoàn thể trong nhà trường để tìm cách giúp bác. Cuối cùng mình đã thay mặt BCH Công đoàn kêu gọi các cán bộ giáo viên và học sinh giúp đỡ bác. Mình thật không ngờ chỉ sau mấy tiếng đồng hồ khi mình đăng bài lên FB, các giáo viên và các thế hệ học sinh đã cùng nhau chia sẻ thông tin và nhận được rất nhiều tình cảm không chỉ từ cán bộ giáo viên, các học sinh đang học tại trường mà tất cả các thế hệ học sinh, cả các em đang sinh sống và học tập tại nước ngoài cũng gửi tấm lòng về chia sẻ cùng bác. Mỗi lần đại diện Nhà trường và Công đoàn trao quà của các thế hệ cán bộ giáo viên và học sinh cho bác là một lần bác cảm động, nghẹn ngào không nói được trọn lời cảm ơn. Bác đã đón nhận tình cảm của các thế hệ cán bộ giáo viên và học sinh như vậy, gia đình và họ hàng bác cũng thực sự cảm động trước tấm lòng của thầy trò trường Phan – nơi có những thế hệ học sinh không chỉ học giỏi mà còn giàu lòng nhân ái và ấm áp tình người.

Đúng ra khi nhận và đã trao đủ số tiền mà các thế hệ Phaner gửi đến bác, mình phải có một bài viết để cập nhật sức khỏe và gửi lời cảm ơn của bác và gia đình đến Phan, nhưng vì bác mất vào chiều 29 tết và đưa tang vào sáng sớm 30, lúc đó mình không muốn thông báo cho mọi người biết vì muốn để mọi người đón Tết an vui cùng gia đình. Từ đó đến nay, thỉnh thoảng FB lại nhắc lại kỉ niệm trao quà cho bác nhưng mình cũng không thể viết thêm gì về bác nữa. Mình thật lòng gửi đến tất cả các cán bộ giáo viên và các thế hệ học sinh vì đã nhận tấm lòng lớn từ mọi người mà chưa nói trọn lời cảm ơn. Xin các Phaner rộng lòng tha lỗi. Và chúng ta tin rằng ở nơi rất xa bác Phú luôn mỉm cười mãn nguyện vì được sống trong sự yêu thương của tất cả mọi người.

Nay Phan sắp kỷ niệm ngày thành lập và đón nhận Huân chương Độc lập hạng nhì, mình viết lại câu chuyện về bác, về một người không thật sự là Phaner nhưng lại rất Phan trong câu chuyện của bác, để thấy rằng Phan là nhà cho mỗi người có duyên đến với nó, rằng mảnh đất này thật nặng nghĩa tình như câu thơ của Chế Lan Viên đã được khắc phía trong cổng trường: “Khi ta ở chỉ là nơi đất ở/ Khi ta đi đất đã hóa tâm hồn”.

Và mọi người thấy đấy: mình đã được gì khi đến với Phan?

A person in a hat

Description automatically generated Bác Phú bảo vệ trong ngày hội trường 40 năm (2014)

THẦY GIÁO PHẠM VIẾT PHƯƠNG

TỰ BẠCH

(Nhân dịp nhận huy chương Vì sự nghiệp giáo dục)

Khi soi gương thấy tóc ngả màu tro

Như bụi phấn gội rồi vương trở lại

Tấm huy chương lặng thầm bên ngực trái

Ba mươi năm chèo lái một con thuyền.

Giấc ngủ nào cũng thao thức không yên

Con thuyền nhỏ vẫn đêm ngày mải miết

Mùa phượng đỏ lại nói lời tạm biệt

Lớp lớp học trò từ giã bến sông.

Chưa một lần tôi có ý chờ mong

Những vị khách qua rồi quay trở lại

Nhưng gương mặt học trò tôi nhớ mãi

Dẫu bây giờ chúng ở tận nơi đâu.

KIỀU SƠN[25]

KÝ ỨC VÀNG

Lội ngoài đồng cũng biết bọn trường Phan

Chúng thải ra bo bo nguyên hạt

Luống khoai lang dân canh phòng cẩn mật

Đám trường chuyên đọc sách trộm rau.

Đói xanh da vàng mắt Hưng Lộc ơi

Mỗi nụ cười là còn trong vắt

Mọi buồn vui đều như trẻ nít

Cả đứa yêu và đứa rình yêu

Thầy trò như nhau chung chiếc chõng nghèo

Thầy chỉ biết một đời cho chữ

Mười đứa trò như nhau mười đứa

Lóng ngóng lơ ngơ mọt sách suốt đời

Chẳng dễ gì hư hỏng được Phan nhân ơi

K7 chúng tôi buồn cười lắm lắm

Chí chóe nhau giờ thành sâu nặng

Một thoáng tương tư mãi tôn thờ

Hương hoa dẻ ngập tràn tuổi thơ

Ký ức vàng một thời mãi mãi

Trường Phan ơi sao mà yêu thế

Niềm tự hào không của riêng tôi

BẢN NHẠC NƠI ĐẤT HỌC NỞ HOA

VI PHONG

BẢN NHẠC NHƯ NGÔI SAO SÁNG

THẦY GIÁO CHU PHÚ

TRƯỜNG PHAN

Năm chục thu xưa tại Diễn Thành

Trường Phan xứ nghệ được khai sanh

Đơn sơ mái lá ươm mầm đẹp

Đạm bạc cơm canh dệt mộng lành.

Trò giỏi hăng say ngời trí sáng

Thầy tài nhiệt huyết tỏa tâm thanh

Cây non một thuở nay cao lớn

Quả ngọt dâng đời rạng rỡ danh.

Viết xong tháng 8/2024

NGUYỄN THỊ THANH QUẾ[26]

CỔ TÍCH CỦA NGÀY NAY

Với các bạn khoá 83 – 87 PBC, trong ký ức là cả một vùng trời kỷ niệm. Nhưng với mình – chỉ vẻn vẹn 3 ngày nhập học trường Phan tháng 9/1984 rồi bước chân ra về – đã có gì gọi là kỷ niệm?

À mà có chứ! Kỷ niệm day dứt não lòng về cái mùa lụt mưa xối xả trắng trời năm 1984 ! Nhớ về nó, viết về nó chắc mình “ ngập lụt” trong miền cảm xúc mất thôi! “ Thương ngày mơ ước chưa tròn” đã làm mình yếu đuối vô cùng rồi…

Mình chỉ muốn lưu lại cùng các bạn những hạnh ngộ thân thương mang sắc màu kỳ diệu như cổ tích – Vâng đó chính là câu chuyện cổ tích của ngày nay…

Sự kết nối mạng xã hội facebook đã giúp mình được gặp lại một người Thầy đáng kính, từ những tấm ảnh mà Thầy lưu lại, mình đã tìm được những người bạn thân yêu trong đội tuyển quốc gia năm 1984. Sau những tin nhắn messenger, bạn bè lần lượt nhận ra nhau, add nick, comment, âm thầm dõi theo nhau trong từng trạng thái cảm xúc…

Rồi Nàng Bạch Tuyết Thu Dung xuất hiện đã đưa mình vào nhóm khoá – ngày 30/5/2016. Đêm ấy mình không ngủ được, nghĩ ra những lời chào hỏi sao cho tiếp cận với mọi người một cách tự nhiên không lạc lõng. Các bạn đã đón nhận mình, cảm giác gần gũi thân thiện biết bao!

Những ngày sau đó, hầu như rảnh giờ nào là mình vào group để hiểu thêm từng chút một. Các bạn vừa chững chạc, vừa nghịch ngợm, “tình cảm thôi rồi” – thật đáng yêu đáng quý! Từng gương mặt hiện ra thân thương lắm…

Hẹn hò cũng nhiều lắm…Nhưng người mình gặp đầu tiên là bạn Phương Trang – thật trùng hợp là cũng vào một ngày mưa: 15/6/2016, chỉ khác là “ngày mưa tháng sáu”giữa Sài Gòn. Gặp bạn rồi mới thấy Sài Gòn rộng mênh mông tấp nập ngược xuôi đến mấy cũng tìm thấy người thương. Đọc những dòng Trang đăng vào nhóm càng thương nhau lạ lùng:

Sáng nay Trang gặp Quế! Hơn ba mươi năm rồi mới gặp lại cô bạn nhỏ nhắn dễ thương quê Quỳ Hợp, học cùng lớp Đội tuyển văn toàn quốc, lớp bồi dưỡng sáng tác ngày xưa…

Bạn vẫn nhỏ nhắn gầy gò, nhưng giỏi giang, nghị lực và mạnh mẽ vô cùng!

Phục bạn, thương bạn nhiều 

Mưa, hai đứa ngồi quán cafe trên đường Quế đi chấm thi tuyển sinh lớp mười, chuyện mê mải, không đầu không cuối, đứa mô cũng hay cười mà mau nước mắt ”

Gặp nhau rồi mới thấy 32 năm(1984 – 2016) trôi qua ngỡ như là giấc mơ…Nghĩ đến câu Minh (Ích) phán : “ Cuối đời Lan gặp Điệp” – cười mà lại buồn chảy nước mắt, vì đứa ở quận 7, đứa ở Cần Giờ, ngang qua nhau suốt đi mà lạc nhau ngút ngàn; cũng có khi Trang với gia đình đứng chụp ảnh ngay thị trấn Cần Thạnh – Cần Giờ, trên con đường hàng ngày mình thường qua lại mà cũng nào hay biết…

Trang thương mình nên luôn nghĩ mình “nghị lực và mạnh mẽ vô cùng” nhưng quả thực có nhiều khi yếu đuối uỷ mị tưởng chừng không thể vượt qua ấy chứ, nhất là nghĩ đến đời công chức tha hương hiếu nghĩa chẳng vẹn toàn với Mẹ Cha. Khi mình mất thăng bằng nhất, mình nhận được món quà đồng cảm trong ngày giỗ Cha 27/11/2016 – cuộc hạnh ngộ lần thứ hai tại ngôi nhà đơn sơ của mẹ con mình thật ấm áp nghĩa tình. Biết rằng nói tiếng cảm ơn thật khách sáo, nhưng chỉ cảm ơn thôi là chưa đủ, xin tri ân tấm lòng thân thương của các bạn dành cho mẹ con mình nhiều và nhiều lắm! Những gương mặt Tùng bèng, Chúng béo, Lâm râu hay những cái tên Mạnh hạc, Dũng quác cũng trở nên quen thuộc quá đỗi…

Lần thứ ba dành cho hai người bạn cũng có một cơn mưa cao nguyên ở thị trấn Lâm Hà – Đà Lạt chào đón. Thật lạ lùng, lúc hai mẹ con mình đến nhà Châu, trời nắng đẹp hanh hao không cần mặc áo ấm, nhưng khoảng hơn một tiếng đồng hồ sau thì trời bỗng mưa rào rào. Chắc tại mình đi đến mô ông trời cũng mủi lòng thì phải? Hay là tại những cơn mưa nó vận vào mình từ tiền kiếp nên mình đi mô hần cụng rượt đuổi theo đây? Bữa cơm toàn món quê, ngon nhít là chả rươi với trấy cọ om thơm bùi béo lâu lắm lâu lằm may đến nhà Châu mà được ăn. Cơn mưa hần thấm vào đất Lâm Hà theo những ríu ran của hai ngài bạn “già mà điệu”. Châu dắt mình ra vườn cà phê với những bông hoa sắc trắng hương thơm ngào ngạt quyến rũ mê hoặc lòng người để nàng ấy tác nghiệp, thêm cả kiểu ảnh ở thềm nhà giữa ngổn ngang cát đá gạch sửa sang chưa hoàn thiện. Vui, ấm áp, thương bạn điệu bé hạt tiêu vô cùng…

Cuộc hạnh ngộ lần thứ tư lại càng đặc biệt – họp nháp Miền Nam tiền hội khoá, chọn ngay Cá Tháng Tư để hẹn hò. Nôn nao quá mà dậy từ 4g sáng, 5g xuất phát, 7g đã có mặt tại nhà Trang rồi. Buổi sáng đến trưa có Lâm râu, mình, Trang với bé Nếp, Huyền, Tùng, trời Sài Gòn tuyệt đẹp, cả bọn “ơm căn” ở nhà hàng Hương Bắc Xưa đô thị Phú Mỹ Hưng. Thật lạ lùng, đến giờ đi lên sân bay đón Châu thì ông trời kéo mây vần vũ, giông gió ngập đường. Trên xe mì hay, Lâm râu vừa lái xe vừa buồn ngủ khải tai vì bên cạnh Tùng bèng hần khò khò thấy thương; đằng sau thì nàng Huyền ngáy, “tay mình ngứa ngáy phải bấm máy dìm cì con ni mì được”…. Số mình có duyên với mưa, nhưng tại răng lại mưa với gió rứa không biết.. Máy bay hần lượn không biết răng nấy vòng mới hạ cánh được. Có tín hiệu từ Châu, cả bọn mừng cò kể, thở phào nhẹ nhõm, dọc đường từ sân bay về quận 7 lại cười nói râm ran, kệ tổ trời mưa – choa gặp chắc bình an rồi là được! Ăn tối, bàn việc đại sự, ngủ ks gưn nhà Trang. Sáng sớm tinh mơ Tùng bèng có việc bay ra Hà Nội, nhưng cò lẹ hấn nhớ gấy muốn về tòm tèm thì đúng hơn(!). Mấy ả ăn sáng với chắc, rồi áo dài tha thướt thong dong mần điệu chụp một seri hình sắp cháy máy Châu. Trưa tiếp tục càn quét nhà Lâm râu thêm một bựa cơm nựa rồi mì chịu tuỳ nghi di tản…Dọc đường mình về nhà, lại lạ lùng một cơn mưa!….

Cảm ơn những hạnh ngộ đã kết nối những nẻo đường, xích gần ủi an những phận người bé nhỏ giữa biển đời mênh mông. Đời người chớp mắt qua mau, tình thương mến thương mãi còn ở lại! Vô cùng thương yêu và mong được hội ngộ cùng các bạn trong niềm hân hoan hạnh phúc lấp lánh sắc màu cổ tích của ngày nay!

Hướng về hội khóa k13 chuyên văn Phan Bội Châu- TP Vinh – Nghệ An mùa hè 2017 –

Thung Nham – Ninh Bình

1. Về với hiền hòa yêu thương

Dù những nẻo đường dắt díu ta đi

Nhưng vẫn sẽ quay về nơi xuất phát

Về với tuổi thơ hiền hòa chân chất

Để gom nụ cười của bạn mang theo….

Để gom bầu trời thăm thẳm trong veo

Để ta thấy trong mình có bạn

Để thêm nhớ một thời trong sáng

Thêm một lần khắc kỷ niệm vào tim….

Sài Gòn đêm lao xao 17.3.2017

2. Thương ngày mơ ước chưa tròn

Ngày nhập học trường Phan

Con chưa kịp quen thầy, chưa kịp cười cùng bạn

“ Mình về thôi con….

Gánh nặng lo toan oằn đôi vai mẹ…”

Bụi không bay vào

Sao mắt con cay thế…

Quãng đường về nhà dùng dằng gãy làm đôi…

Mẹ đưa con về, mưa xối xả trắng trời

Cầu Hiếu bắc qua sông, đôi bờ ngập lụt

Đành tìm nhà người quen qua đêm tá túc

Đêm ấy mưa dột chỗ con nằm, ướt sũng cả giấc mơ…

Ba mươi năm

Xa thầy lạc bạn

Nuối tiếc ngẩn ngơ…

Con lầm lũi bước đi

Xa nhà biền biệt…

Mỗi ngày tóc mẹ thêm trắng mây

Lòng con buồn da diết…

Dõi mắt quê nhà

Day dứt kỷ niệm xưa…

Mẹ cả một đời gồng gánh nắng mưa

Con nhớ cảnh cả nhà chung tem phiếu

“Làm sao chia…con ơi có hiểu,

Thôi con về học trường nhà, cùng vá víu nuôi nhau”…

Mẹ ơi…con nghẹn ngào…con không trách mẹ đâu!

Hạt mít, củ khoai ấm lòng con đến lớp

Nhóm bếp lửa hồng ngày đông, ba gọi con thức giấc

Anh chị em con quây quần, bài cũng thuộc mau hơn…

Giấc mơ làm luật sư thênh thang giảng đường

Cũng chỉ có trong mơ…vì…nghèo là cái tội…

Con làm bạn với gánh rau mớ dưa, nuôi bữa cơm sáng tối

Con lầm lũi nghẹn ngào với tất tả ngược xuôi…

Rồi có một ngày con cũng được mỉm cười

Sau ba năm ẩn mình, con thi vào Sư phạm

Con không còn cúi đầu giấu mặt buồn u ám

Lay lắt phận người mớ dưa, gánh rau không còn đuổi theo con

Ba mươi năm trôi qua…

Con gặp lại bạn bè xưa

Càng thương hơn ngày mơ ước chưa tròn…

Các bạn vỗ vai, nắm lấy tay con thật chặt và ấm áp

Con sẽ giữ hơi ấm bàn tay mình

Trang trọng đặt vào bàn tay mẹ chai sần thô ráp

Để được thấy mẹ cười – nhé mẹ của con ơi!

Sài Gòn, tháng Tư – 2017

TRẦN PHƯƠNG THẢO [27]

HOA TÍM TRƯỚC SÂN TRƯỜNG

Chùm bằng lăng nở muộn

Thay lời nói chia tay

Gửi vào trong gió thoảng

Một chút hương nồng say

Xôn xao miền ký ức

Tuổi học trò thơ ngây

Nét hồn nhiên tinh nghịch

Lấp ló sau vòm cây

Bằng lăng ơi, bằng lăng

Màu mắt ai tím biếc

Cho nỗi niềm nuối tiếc

Không cất cánh thành lời

Sắc tím vẫn bồi hồi

Cho con tim xao xuyến

Nắng vàng rơi lưu luyến

Tiếng cười trong mắt nai

Giờ học sao khó phai

Hương bằng lăng vương vấn

Để mắt ai lệ ngấn

Nghĩ đến ngày chia xa.

ĐẶNG THỊ THUÝ[28]

TRI ÂM

Lặng nghe cô giảng đời Kiều

Một đời trôi dạt qua nhiều truân chuyên

Đinh ninh hai mặt lời nguyền

Cho tròn chữ hiếu phải quên chữ tình

Một đời sống chẳng vì mình

Một đời lận đận hy sinh cho người

Em nghe cô giảng từng lời

Rưng rưng muốn khóc cho đời hồng nhan

Sự đời cứ hợp rồi tan

Đoàn viên màn cuối ngẫm càng đớn đau

“Trải qua một cuộc bể dâu

Những điều trông thấy mà đau đớn lòng”

Cánh bèo trôi nổi giữa dòng

Thân Kiều phiêu dạt long đong giữa trời

Ngày xưa Kiều khóc cho người

Hôm nay người khóc cho người năm nao

NGUYỄN THỊ THANH THUỶ[29]

THIÊN ĐƯỜNG Ở TRÊN CAO

Lớp học trên tầng ba

Bốn mùa lồng lộng gió

Mùa đông kề ôm nhau

Mùa hè cười hớn hở

Bốn khung cửa sổ nhỏ

Nhìn ra khoảng trời xanh

Một khóm trúc xinh xinh

Ru những hồn lãng mạn

Hành lang dài vô tận

Nơi ấy còn dáng ta?

Cây bàng còn xanh lá

Và hoàng lan nở hoa?

Này đây chỗ ta ngồi

Tên ta còn trên ghế

Xưa: ta quậy nhất “vùng”

Giờ… kẻ nào thay thế?

Trở lại niềm ký ức

Gọi tên những yêu thương

Trong tim ta vĩnh cửu

Trên cao… một thiên đường

Long hallway with white walls and doors

Description automatically generated

ĐƯỜNG THỊ THƯƠNG[30]

THƯ XỨ NGHỆ GỬI BẠN

Đi xa nhà đã được tròn năm

Răng không viết thư về cho tau biết với?

Hà Nội thì xa vời vợi

Trời trong xanh đâu cát bụi gió lào

Có hôm nào mi nhìn những vì sao

Và thấy hình quê hương trong đó

Ở đây có bao điều mới lạ

Bao nhớ thương, thương nhớ ngập đầy

Lần đầu tiên mi ra nơi đây

Chộ chi cũng ngỡ ngàng quá đỗi

Bây chừ đã là người Hà Nội

Mi có còn nhớ cô bạn năm xưa?

Thư viết cho mi với tất cả tấm lòng

Quà đơn giản là mấy câu nhắn hỏi

Dòng Lam xinh vẫn hiền hòa không nói

“Mô, ni, tê” gửi bạn lúc xa nhà

PHAN QUỲNH TRANG[31]

LẮNG NGHE

Lắng nghe trong tiếng chim

Có niềm vui nho nhỏ

Lắng nghe trong tiếng gió

Chút lao xao bình yên

Lắng nghe phía ngoài hiên

Từng giọt xuân tí tách

Lắng nghe ở trên cành

Tiếng mầm non nảy lộc

Một tiếng mõ cốc cốc

Mở cửa đón niềm vui

Lắng nghe xuân thì thầm

Ngập ngừng trái tim tôi

Cúi tìm thời xa xôi

Trong từng trang cổ tích

Lắng nghe xưa vọng về

Tiếng cười đùa tinh nghịch

A tree with pink and white flowers

Description automatically generated

THẦY GIÁO PHAN HUY TUẤN

TỔ VĂN TRƯỜNG THPT CHUYÊN PHAN BỘI CHÂU –

NHỮNG GÌ TÔI BIẾT

Tôi về trường Năng khiếu Nghệ Tĩnh (Nay là Trường THPT chuyên Phan Bội Châu Nghệ An) từ niên khóa 1976 – 1977, năm bắt đầu sáp nhập 2 tỉnh Nghệ An và Hà Tĩnh. Cũng như các cơ quan cấp tỉnh khác, các lớp chuyên Toán, Văn của Hà Tĩnh đặt ở trường cấp 3 Phan Đình Phùng, nơi vợ chồng tôi đang giảng dạy ra sáp nhập với các lớp chuyên Văn, Toán của trường năng khiếu Phan Bội Châu Nghệ An lúc đó đóng tại xã Diễn Thành huyện Diễn Châu. Chúng tôi được điều động theo khối chuyên và trở thành thành viên của trường Năng khiếu Nghệ Tĩnh từ đó. Lúc này, trường mới có ba khối 8,9,10 (bây giờ là 10,11,12), mỗi khối hai lớp chuyên Văn và chuyên Toán. Vì vậy số lượng giáo viên, cán bộ công nhân viên chưa nhiều. Tổ văn mới có sáu người gồm các thầy Phan Xuân Chấn (tổ trưởng), Hoàng Quỳ, Hồ Sĩ Minh Đô, Phan Huy Tuấn và hai cô Trần Thị Bích Diệp, Lê Phương Nga. Năm học trước đó thầy Phan Huy Huyền làm tổ trưởng nhưng vừa chuyến đi nơi khác và thầy Nguyễn Tấn Dương đi học cao học. Cuối năm 1977, chúng tôi theo trường chuyển vào xã Hưng Lộc, thành phố Vinh, cơ sở sơ tán cũ của Ty giáo dục tỉnh Nghệ An thời chiến tranh chông Mỹ. Các thầy giáo Phan Xuân Chấn, Hoàng Quỳ không đi theo trường; thầy Hồ Sĩ Minh Đô ở lại giảng dạy thêm một năm rồi cũng dời đi trường khác. Bổ sung vào đó là thầy Trần Hữu Dinh và sau này thêm thầy Nguyễn Văn Lập, Lê Thái Phong.

Vào địa điểm mới Hưng Lộc, các tổ chuyên môn được sắp xếp lại. Tổ văn hợp nhất với hai bộ môn sử, địa để thành tổ Văn Sử Địa (nói gọn là tổ xã hội).và thầy Trần Hữu Dinh làm tổ trưởng.

Năm 1980, một lần nữa trường chuyển về địa điểm mới ở 48 đường Lê Hồng Phong thành phố Vinh với cơ ngơi chính thức cho đến tận bây giờ. Ít năm sau, thầy tổ trưởng Trần Hữu Dinh lên làm Phó Hiệu trưởng, tôi, Phan Huy Tuấn đảm nhiệm cương vị ấy cho đến ngày được bổ nhiệm làm Phó Hiệu trưởng (1996) và cô giáo Nguyễn Thị Tỵ lên thay.

Những năm sau 1980 ở địa điểm mới, quy mô của trường ngày càng phất triển, nhất là sau khi trường năng khiếu cấp 2 giải thể, trường còn đảm nhiệm thêm các lớp năng khiếu cuối cấp 2 (lớp 7 chuyển tiếp sang lớp 8 rồi lớp 9), thêm các hệ chuyên Lý, chuyên Anh và dần thêm rất nhiều lớp chuyên khác, kể cả hệ B (Toán – Anh; Toán – Lý) nên giáo viên văn được điều về hoặc tuyển dụng nhiều thêm. Lúc này, Tổ Văn lại tách ra không còn gộp thêm Sử, Địa. Còn nhớ, trong đội ngũ giáo viên mới về trường của tổ, bên cạnh các thầy lão làng như thầy Nguyễn Tư Hoành, Nguyễn Tấn Dương, Phạm Viết Phương, trẻ hơn một ít như Trần Vũ Bảo, Ngô Xuân Vinh, cô Nguyễn Thị Tỵ, là một lớp giáo viên mới được tuyển dụng qua thi tuyển như Bùi Thị Thu Hằng, Nguyễn Thúy Anh, Phan Thị Nga và rất trẻ như Nguyễn Thị Giang Chi, Ngô Hiền , Nguyễn Thị Kim Chi, Lê Lương Tâm…vốn là học sinh chuyên văn xuất sắc của trường được đào tạo chính quy từ Đại học sư phạm, phần lớn đã có bằng hoặc đang học bằng thạc sĩ. Đó là một đội ngũ dạy văn rất chất lượng.

Gần 30 năm sinh hoạt với tổ Văn Sử Địa (sau này là tổ Văn), tôi cảm thấy được sống trong một tập thể luôn luôn đoàn kết, vui vẻ, tôn trọng và yêu thương lẫn nhau như anh em một nhà. Với phương châm tất cả vì học sinh thân yêu, mọi người nỗ lực hết mình khắc phục khó khăn, nhất là ở thời kỳ đất nước vừa ra khỏi cuộc chiến tranh (chống Mỹ), thời kỳ bao cấp, đời sống vật chất từng cá nhân gia đình đầy vất vả, cơ sở vật chất của trường nghèo nàn, điều kiện phục vụ cho dạy và học thiếu thốn đủ bề từ cái nhỏ nhất là sách giáo khoa, tài liệu tham khảo cho đến thông tin khoa học cập nhật… Nhưng cuối cùng rồi cũng vượt qua.

Về chuyên môn, ngoài nhiệm vụ chính là giảng dạy các giờ chính khóa trên lớp mỗi giáo viên dạy chuyên phải đảm trách thêm việc bồi dưỡng học sinh giỏi, ít nhất mỗi tuần một buổi. Trong điều kiện khó khăn, thiếu thốn về tài liệu, sách tham khảo, thiếu thông tin, mỗi cá nhân tự mình xoay xở hoặc hợp sức trao đổi với đồng nghiệp rút kinh nghiệm, nhưng chủ yếu là tự mày mò, sáng tạo để năng cao chất lượng giảng dạy, bồi dưỡng học sinh giỏi. Ngoài hoạt động chính khóa, với nhiệt tình và trách nhiệm, nhiều anh chị em đã tổ chúc các buổi ngoại khóa văn học (tổ chức các câu lạc bộ văn học theo chủ đề như Văn học dân gian, Văn học trung đại; Truyện Kiều của Nguyễn Du; Thơ văn Nguyễn Trãi v.v…). Một số giáo viên cùng các học sinh được lựa chọn đi nói chuyện thơ ca phục vụ cho nhiệm vụ quan hệ kết nghĩa giữa nhà trường và đơn vị quân đội đóng gần (Tiểu đoàn Nguyễn Viết Xuân ở phường Hưng Bình); tổ chức các buổi biểu diễn văn nghệ với các tiết mục “cây nhà lá vườn” do giáo viên và học sinh chuyên văn viết (đề tài và nội dung khai thác từ các tác phẩm văn học có trong chương trình).Cách làm này có tác dụng tạo niềm hứng thú trong học tập và bổ túc thêm kiến thức ngoài sách vở cho học sinh. Tổ cũng hưởng ứng tích cực các đợt thao giảng do nhà trường, Công đoàn phát dộng mỗi dịp có sự kiện kỷ niệm những ngày lễ lớn (8/3; 20/11…). Một số anh chị em đã tham gia thao giảng cấp tỉnh, tham gia viết và trình bày báo cáo trước các cuộc hội thảo khoa học do Sở Giáo dục kết hợp trường ĐHSP Vinh tổ chức. Mọi thành viên trong tổ hàng năm tham gia tích cực viết sáng kiến kinh nghiệm; nhiều sáng kiến được Phòng chuyên môn Sở xếp hạng cao, giật được giải thưởng danh giá của Ngành. Kết quả thi học sinh giỏi môn văn các khối hàng năm đều tốt, nằm trong tốp đầu của tình. Đội tuyển học sinh giỏi văn lớp 8 (cuối cấp 2 khi Bộ còn tổ chức kỳ thi này), lớp 10 dự thi miền Bắc trước 1980 và toàn quốc sau này, năm nào cũng đạt giải, có nhiều năm đạt giải cao nhất. Nhiều giáo viên được công nhận giáo viên giỏi cấp trường và cấp tỉnh. Tổ luôn được xếp loại thi đua tiên tiến xuất sắc.

Những buổi sinh hoạt chuyên môn của tổ lúc nào cũng vui vẻ. Ngoài bàn chuyện chuyên môn, anh chị em thường lấy cớ để tổ chức liên hoan, một cách để làm cho cuộc sống tươi vui đỡ nhàm chán. Trong chuyên môn, giữa các thầy cô lão làng cho đến giáo viên trẻ, luôn bảo ban nhau, chia sẻ những thành tích của nhau, góp ý thân tình về thiếu sót, khuyết điểm của đồng nghiệp để cùng tiến bộ. Các thầy giáo già đối với lớp trẻ, ứng xử rất “người lớn”, không bon chẹn đố kỵ, tôn trọng đồng nghiệp trẻ. Giữa anh em đồng nghiệp nói chung là luôn biết nhường nhịn nhau kể cả về quyền lợi vật chất và tinh thần (thời bao cấp có phân phối vật chất hay khi tăng lương nâng bậc không có chuyện tỵ nạnh). Mọi phân phối, bình xét chủ yếu dựa trên tiêu chuẩn công khai minh bạch và diều đáng quý là anh em tôn trọng sự hợp lý mà tổ quy định. Chính vì thế mà tổ Văn thành tổ ấm đúng nghĩa, ai rời đi cũng tiếc, ai mới đến thì được đón nhận vui vẻ, dễ hòa nhập. Mỗi người vì lý do nào đó phải rời tổ hay những người mới đến đều có cảm giác “.xa nhau là nhớ, gặp nhau là mừng” như ca từ một bài hát nào đó mà tôi không nhớ.

Tháng 4 năm 2003, tôi chính thức rời trường, rời tổ Văn để nghỉ hưu. Những gì tôi biết sau thời gian đó, tổ Văn vẫn giữ vững được truyền thống và hơn thế nữa, còn phát triển, vững mạnh hơn. Đó là một điều đáng mừng.

Nay nhân dịp Trường THPT chuyên Phan Bội Châu kỷ niệm 50 năm thành lập, 60 năm hệ chuyên tôi nghĩ đến hai tổ chuyên môn lâu đời nhất là tổ Văn và Tổ Toán mà muốn viết đôi điều về tổ. Nhớ lại những kỷ niệm khó quên về tổ, tôi tự hào về những năm tháng mình cùng đồng nghiệp đồng cam cộng khổ, vượt khó, nỗ lực xây dựng một tổ vững mạnh. Và tôi tin, thế hệ sau chúng tôi sẽ tiếp nối truyền thống này, xây dựng tổ ngày một trưởng thành, phát triển hơn xứng đáng là một tổ chuyên môn chủ chốt trong hệ thống, cơ cấu tổ chức của trường THPT chuyên Phan Bội Châu thân yêu của chúng ta.

Hà Nội, ngày 1/9/2024

THẦY GIÁO PHAN HUY TUẤN*

DIỆU THUẦN, MỘT Ý CHÍ KIÊN CƯỜNG

Mến tặng Hoàng Thị Diệu Thuần, học sinh chuyên Nga trường Phan

Gặp em tôi thật ngỡ ngàng

Ẩn sâu trong vẻ dịu dàng mảnh mai

Nhỏ nhoi như giọt sương mai

Mà sao lóng lánh rạng ngời sắc xuân.

Tên em là Hoàng Diệu Thuần

Tâm hồn ý chí bội phần thép gang

Lão già số phận[32]** phũ phàng

Đẩy đưa em đến trái ngang cuộc đời

Tuổi hoa chưa kịp đôi mươi

Làm sao vội tắt nụ cười thanh xuân.

Mười năm đối mặt tử thần

Bệnh tình quái ác bào dần tấm thân

Đã không lỡ hẹn một lần

Giảng đường, lớp học tạm dần rời xa

Đớn đau nào cũng trải qua

Dịch truyền, thuốc chích ngày ba bốn lần.

Hai bề sống, chết phân vân

Có khi lưỡi hái tử thần kề bên.

Tưởng rằng bóng tối đêm đen

Mãi như quái vật trùm lên cuộc đời

Kẻ yếu đuối dễ buông xuôi

Còn em không thuộc “típ” người thở than

Ngày nào còn ở trần gian

Con tim còn đập vẫn tràn niềm tin.

Bản năng mách bảo kiếm tìm

Làm bông hoa nhỏ hướng lên mặt trời

Hướng dương mầm sống em ơi

Ngàn muôn tia nắng mặt trời tiếp thêm.

Hết ngày qua đến tàn đêm

Em như đốm lửa vẹn nguyên là mình.

Từ trong tuyệt vọng hồi sinh

Đường xa chưa hết gập ghềnh với em

Nhưng bằng ý chí vươn lên

Vượt qua thử thách làm nên diệu kỳ!

Em vui trong những sẻ chia

Tình thương ấm áp vỗ về nỗi đau

Bên người thân, với bạn bầu

Có nhân ái, có tình sâu cộng đồng.

… Giữa vòng vây của đám đông

Tự tin em gửi tấm lòng tri ân

Hiểu em, tôi tự nhủ thầm:

Kiên cường chắc chỉ Diệu Thuần là em?

Ngày dự buổi ra mắt sách Muôn ánh mặt trời

của Hoàng Thị Diệu Thuần[33]*

20/12/2015

NGUYỄN THỊ MINH TÂM[34]

HAI MÙA

Gió hẹn bằng lăng năm nay không đến sớm

Lũ học trò sợ năm cuối dần qua

12 rồi, hè ơi đừng đến vội

Gió chùng chình đưa lá khẽ xôn xao

Chớm hạ về bằng lăng thay áo đỏ

Bàng cũng cựa mình bung màu thắm xanh

Ngỡ ngàng đi giữa hai màu lá đổi

Thoáng giật mình, hai mùa về đấy sao?

Khẽ chênh chao hai hàng cây nghiêng lá

Là “mùa thu”…

là hạ…

hai mùa qua…

Học trò rưng rưng gửi buồn theo lá đỏ

Tiếc một thời xanh thẳm rồi mãi xa…

Áo dài bay… bâng khuâng hai mùa lá

Có hay rằng thầy đứng lặng gần bên

Lá đỏ trầm tư… thầy ơi…

chiều buông nắng

Hành lang hai mùa chợt ấm những yêu thương

Về trường xưa, nhớ hai mùa lá đổi

Hai mùa thân thương trong veo mắt học trò

Hai mùa đong đưa tuổi mộng mơ em lớn

Hành lang trường màu lá ngẩn ngơ bay.

A street with trees and a statue

Description automatically generated

TẠ TƯỜNG VI[35]

THẦY CÔ

Ngày xưa đi học, thầy cô là thánh nhân, nói thế nào thì là đúng thế, bọn học trò chúng tôi cứ mắt tròn mắt dẹt ngồi nghe.

Bốn năm học trường Phan, chúng tôi chỉ có một thầy dạy Sử duy nhất là thầy Kiêm. Có lẽ thầy là người thầy đặc biệt nhất trong đời học sinh của tôi. Khi chúng tôi vào trường thì thầy cũng đã đứng tuổi, thầy nuôi một lọn tóc dài phía trước, vắt ngang che đi khoảng trán thưa tóc. Sau này, đi nhiều tôi mới biết rất nhiều người dùng cách đấy, nhưng hồi bấy giờ thì chỉ thấy mỗi mình thầy. Thầy giảng rất hay, không sách vở, cứng nhắc, những câu chuyện lịch sử qua giọng kể nhỏ nhẹ, trầm bổng của thầy bỗng trở nên thú vị và độc đáo. Độc đáo không phải vì bản chất của câu chuyện mà vì cách kể của thầy: Napoleon được thầy trân trọng biến thành “ngài” với một đội quân mà nếu người lính cuối cùng trong hàng ngũ chưa thắt xong dây giày thì cuộc hành quân chưa thể bắt đầu; Stalin thì thành “hắn” bất tài còn Nero – nhà thơ bạo chúa – người được cho là đã đốt cháy thành Rome để lấy cảm hứng thi ca trong lời thầy trở thành vị anh hùng lấp lánh hào quang của sự lãng mạn. Thế là sau một thời gian, khái niệm quân địch, quân ta, anh hùng, tiểu nhân cứ loạn xạ hết lên. Học với thầy chưa được bao lâu, một hôm thầy hỏi tôi: “Em có phải là con anh Tường không em?” (Tường là tên cha tôi). Tôi ngoan ngoãn gật như bổ củi. Thế mà sau này thầy vẫn hỏi tôi thêm mấy lần nữa đúng câu đấy bằng cái giọng trầm bổng du dương đó. Như thể rất ngạc nhiên, làm sao cha tôi lại có đứa con như tôi. Cái sự thầy biết cha tôi nó cũng đơn giản: cha tôi học Văn, khóa trước thầy, hai người còn là đồng hương Diễn Châu. Sau này khi sang Nga, tôi mới phát hiện ra đến tận năm đứa bạn nữa có bố mẹ học cùng trường Tổng hợp và các phụ huynh đều biết nhau rất rõ. Có cảm giác như ngày xưa cả cái miền Bắc này chỉ tồn tại mỗi Trường Đại học Tổng hợp, hay là ngày đấy trái đất chật hẹp hơn bây giờ? Dù gì thì thầy Kiêm là một đại diện tiêu biểu của sinh viên Trường Tổng hợp thời bấy giờ: tài hoa, lãng mạn và rất cá tính. Tôi có được nghe qua về chuyện tình của thầy. Nghe nói ra trường, thầy đã yên ổn công việc ở Hà Nội, nhưng lại tình cờ quen nàng thơ của mình – chính là cô Diệp dạy Văn trường Phan lúc đấy. Thế là thầy bỏ lại Thủ đô phồn vinh, ôm bó hồng đỏ thắm (rất hiếm ở thời đấy), lặn lội vượt mưa bão về Vinh cầu hôn cô. Cũng nhờ có tiếng gọi con tim mãnh liệt của thầy mà thầy Thông được lãi một nhà trí thức chân chính, và cuộc đời có em Khôi với đôi mắt đen trong veo, tròn xoe, nhìn qua đã thấy tư chất sáng ngời.

Lại nói về chúng tôi ngày đấy. Vì thầy kể chuyện rất hay, rất hấp dẫn, nên chúng tôi cứ há miệng tận hưởng, quên cả ghi chép, quên cả những con số, sự kiện lịch sử; đầu óc lúc nào cũng vẩn vơ theo những vị anh hùng lãng mạn của thầy. Mà thầy cũng không khắt khe, ít kiểm tra miệng, ít mắng chúng tôi, nếu mắng thì cũng rất nhẹ nhàng. Kết quả là lũ chúng tôi năm đấy đi thi Tổng hợp điểm Sử be bét, tôi dẫn đầu từ dưới lên với con 1,5 to đùng, còn Minh cao nhất được 4,5 – nỗi đau hại nàng không thể đi du học được mặc dù thừa điểm tổng. Bây giờ nghĩ lại vừa trách mình, vừa thương thầy.

Cái bọn Văn chúng tôi, ngoài Văn, Sử ra còn phải nghiềm ngẫm đủ các thể loại kiến thức địa lý. Tôi nhớ thầy Minh dạy Địa có dáng người dong dỏng, chiều cao hiếm thấy ở thời đại đấy. Với đôi mắt xanh lơ của Alain Delon, thầy thực sự rất đẹp trai, không phải như diễn viên hàn quốc ngày nay đâu, mà như một chàng trai bước ra từ những thước phim nước ngoài cổ điển. Bọn tôi cứ đoán già đoán non chắc thầy có gốc gác đâu đấy từ Pháp và ngày trẻ phải có cả hàng dài các cô cảm nắng thầy. Bây giờ tôi không còn nhớ thầy giảng ra sao nữa, chỉ nhớ thầy rất hay giao chúng tôi vẽ bản đồ. Chúng tôi học Địa như học vẽ, và thỏa sức phát huy khả năng phối màu của mình. Sau này khi thi đại học, run rủi thế nào mà cả hai trường tôi thi đều không yêu cầu vẽ bản đồ, thế là mất toi công học vẽ ba năm. Thầy Minh có quan niệm sống rất hiện đại. Cái thời “củi quế gạo châu” ấy, bọn chúng tôi lộc ngộc, ngơ ngác, cơm ăn không đủ no, toàn mặc áo thừa của chị, của mẹ, nào có chút khái niệm gì về làm đẹp. Thời đấy mà son phấn, ve vôi như bây giờ được coi là “đĩ” lắm. Vậy mà thầy bảo “làm đẹp cho mình, cho đời, cho xã hội là đáng được khuyến khích, được ca ngợi”. Chúng tôi há miệng nghe rồi miên man suy ngẫm về cái sự đời đầy mới mẻ của thầy.

Cái sự học mấy môn Xã hội của chúng tôi nó mơ màng như thế nhưng vẫn quá là xuất sắc so với các môn Tự nhiên.

Đầu tiên là Toán, môn học quốc hồn quốc túy của Việt Nam chủ yếu do cô Bê dạy. Ngày đấy, tôi cứ ngắm cô Bê rồi nghĩ không hiểu cô giống ai, sau này đi nhiều, tôi mới đi đến kết luận, cô rất giống những cô gái Nga má hồng như quả táo chín, mặc váy dân tộc Nga múa những điệu múa dân gian. Cô nhiệt tình lắm, dạy hăng say, viết bảng hăng say. Chưa đến nửa giờ Toán thì cái bảng đen to oành đã kín đặc những chữ, còn cô thì mồ hôi ướt đẫm áo. Cô cứ “bê anh ni đặt sang anh tê” một thôi một hồi, lũ học trò ngồi dưới há hốc mồm, mụ mẫm không phân biệt được “anh ni” với “anh tê”. Cứ cô quay xuống thì cả lớp ngồi ngay ngắn, còn cô quay lên viết bảng là ngay lập tức dưới lớp xôn xao, mỗi đứa một việc. Khổ nỗi cái số lần quay lên quay xuống và thời gian cô viết bảng nó cứ luân phiên liên tục, nên bọn học trò bên dưới nhiều khi phản ứng không kịp. Có bận, Huế đang mải buôn, cô quay xuống không kịp ngậm miệng lại, đành bào chữa bằng nụ cười tỏa nắng. Có lẽ thấy nụ cười của Huế chưa đủ sắc màu nên viên phấn trong tay cô bay vèo về góc lớp đấy. Sau này Huế cứ cãi là viên phấn không trúng Huế mà trúng mắt Huy, nhưng cả lớp lúc đấy thì vô cùng ngưỡng mộ tài ném bia của cô, ai cũng cho rằng bữa trưa hôm đấy khẩu phần ăn của Huế có thêm vị phấn. Còn cô thì lắc đầu ngao ngán: “Răng mà khổ ra ri hầy”. Sau này, tôi đi dạy, trường tôi có khoa Công tác xã hội lấy đầu vào toàn khối C, mỗi lần chuẩn bị bước vào các lớp đấy, tôi phải hít thở thật sâu, tự dặn mình “bình tĩnh, bình tĩnh, bình tĩnh …”, những lúc ức chế quá tôi phải chạy ra khỏi lớp, vận nội công để hạ hỏa rồi mới quay vào giảng tiếp được. Tiết học 50 phút có khi chạy ra chạy vào đến 4 – 5 lần. Mãi lúc đấy mới thông cảm với cô, biết thương cô.

Đỡ be bét hơn chắc là giờ Lí. Chúng tôi học Lí thầy Thảo, cô Lý, nhưng có lẽ chủ yếu là cô Lý. Cũng có lẽ do chúng tôi là học trò lớp thầy chủ nhiệm nên cô gần gũi và hiểu chúng tôi hơn. Trái với cô Bê, cô Lý nói không nhiều, đủ để những cái đầu ngơ ngẩn của chúng tôi phân biệt được hiện tượng trời quang, mây tạnh, nắng gắt, đứng gió là báo hiệu tích tụ bão, chứ không phải chim hót véo von như Dung Mo suy luận. Cô Lý luôn giảng từ tốn, nhẹ nhàng, mắng cũng không cần cao giọng, thế nhưng chúng tôi sợ cô hơn cô Bê nhiều. Vừa e sợ lại vừa có gì đấy quyến luyến. Giờ học của cô ít đứa dám vắng, dám không làm bài tập, mặc dù suy cho cùng bài tập các môn Tự nhiên hồi đấy rất đơn giản, thầy cô cũng chỉ yêu cầu chúng tôi ở mức tối thiểu nhất. Chắc do chúng tôi sợ cái cảnh một cổ hai tròng, gây tội trong giờ cô thì không những nhận hình phạt từ cô mà còn cả thầy Tuấn biết nữa nên chẳng ai bảo ai, đều nghiêm túc nhất có thể. Cho đến giờ tôi vẫn nghĩ rằng cô giảng rất dễ hiểu, căn cứ vào việc đến tận lớp 12 điểm tổng kết Lý của tôi vẫn nằm trên mức xuất sắc. Hai mươi năm trở về gặp thầy cô, ngại ngùng báo với thầy: “Em bây giờ không còn là dân chuyên Văn nữa thầy ạ, phụ công thầy kỳ vọng”. Cô Lý tỉnh bơ nói: “Tường Vi từ xưa vẫn học tốt tự nhiên mà. Ngày đấy cô nghĩ em học chuyên Lí cũng được”. Choáng! Chưa bao giờ nghĩ được đến thế, và thực lòng biết ơn cô kể cả nếu cô chỉ là để an ủi thôi. Chúng tôi, những đứa lập nghiệp ở Hà Nội có được may mắn mỗi năm một lần đến thăm thầy cô. Mỗi lần nhìn thầy cô già đi, yếu đi là lòng lại thấy nôn nao buồn, nỗi buồn tiếc một thời tuổi trẻ, nỗi buồn lo một ngày nào đấy sẽ phải chịu cái cảnh: cảnh đấy nhưng người còn đâu. Chỉ mong sao thầy cô vẫn còn để có thể mỗi ngày 20/11 không hẹn mà nên cả lũ lại ríu rít nói cười bên thầy cô.

Có một cô giáo mà ít khi chúng ta nhắc đến, có lẽ do cô trầm lặng quá – cô Hương dạy môn Hóa. Khỏi phải nói, Hóa học đối với chúng tôi là môn học vô lí nhất trên trần đời. Tên các nguyên tố hóa học thì chẳng có tí logic nào, khổ nhất là chúng tôi không tài nào phân biệt được kết tủa, ngưng tụ, bay hơi, thăng hoa… Nó cứ trừu tượng, ở đâu đâu ấy. Nhưng cái bi đát hơn nữa là cô Hương không thèm chia sẻ nỗi băn khoăn của chúng tôi. Cô cứ điềm nhiên giảng, rồi điềm nhiên bỏ mặc chúng tôi đánh vật với vô vàn câu hỏi lửng lơ trong đầu. Cô ngồi sau bàn giáo viên, đôi mắt rất đẹp có hàng mi dài cong vút như mắt búp bê Barbie nhìn về một điểm vô định. Có một nỗi buồn nào đấy cứ man mác trong cô. Tôi có chút duyên nợ với cô hơn. Mẹ tôi và cô là bạn học đại học, nên đôi khi tôi có theo mẹ đi chơi, gặp cô ở những cuộc gặp mặt của bạn bè mẹ. Tuy kiến thức Hóa học của tôi chỉ dừng lại ở tên các nguyên tố và cân bằng được những phương trình đơn giản, nhưng có lẽ vì chỗ thân quen nên điểm của tôi bao giờ cũng trên 8. Thực ra thì cả lớp chúng tôi cũng không có ai thấp điểm Hóa và cô có lẽ cũng chưa một lần nào trách mắng chúng tôi. Tôi nhớ có giờ kiểm tra, đang làm bài, Nguyên ngất bỗng đá chân: “Mi nhìn đi, coi cô đã ngủ chưa?”. Tôi ngẩng lên, có vẻ như cô nhắm mắt ngủ thật, chàng Nguyên nhanh tay với tờ giấy kiểm tra của tôi, đúng lúc đấy cô ngẩng đầu lên nhìn thẳng vào hai tội đồ cứ như là bắt được sóng não của chúng tôi. Cả hai cùng giật mình, tôi nhanh nhẹn cắm bút xuống bàn, còn Nguyên giật phắt tay về. Hỡi ôi, mỗi đứa chúng tôi giữ một nửa bài kiểm tra hóa học yêu thương. Sau màn biểu diễn đặc sắc, cả hai đờ người chờ đợi sấm sét. Nhưng không, cô lại thu ánh mắt về, khép mắt lại như chưa từng có chuyện gì xảy ra. Hú vía, thoát nạn, Nguyên ngất vẫn không quên chêm một câu: “Tau đã nói mi mà, cô ngủ, chỉ giật mình thôi, không thấy chi mô”. Trong tâm trí tôi, cô vẫn hiền như thế, dịu dàng và có vẻ gì đấy như không màng đến thế sự. Cho đến một ngày khi ra trường rồi, mẹ tôi nói với tôi thầy Thanh bị ung thư đang nằm viện. Tôi cùng mẹ vào viện thăm thầy. Khi gặp mẹ tôi, cô lặng lẽ ôm mẹ, những giọt nước mắt ngập mi nhưng không rơi xuống. Tôi nghĩ cô phải cố, cố lắm để nuốt nước mắt vào trong. Thầy vốn dĩ là thầy giáo của cô. Năm thứ nhất đại học, cô đã lấy chồng, sinh con. Thầy Thanh ở xa vừa nuôi con, vừa nuôi vợ đi học. Cô học trò bé nhỏ xuất thân quyền quý mãi bé nhỏ trong sự chăm chút của thầy. Cho đến một ngày thầy bỏ cô ra đi. Ở phương xa, tôi nhận được tin đấy, cố ngăn nước mắt rơi, tôi nghĩ đến nỗi buồn luôn ẩn khuất trong cô.

Có công đưa chúng tôi hội nhập quốc tế đầu tiên chắc là thầy Lân. Cứ gần đến giờ học là thầy đủng đỉnh từng bước đi từ khu tập thể giáo viên lên, tay ôm đúng một cuốn sách giáo khoa Tiếng Nga. Lũ chúng tôi cứ nhìn qua cửa sổ thấy thấp thoáng bóng thầy trên bờ ao là náo loạn chạy về chỗ. Giờ Tiếng Nga chắc là giờ kinh hãi nhất của chúng tôi, vì rất nhiều đứa tuy tiếng Việt thì phân biệt vanh vách tóc dài là con gái, tóc ngắn là con trai, còn sang tiếng Nga thì không hiểu nổi đâu là “Ôn” đâu là “Ana”, “Ano”. Thầy lại còn rất chăm kiểm tra bài cũ. Mỗi lần lên lớp thầy cầm sổ đầu bài nhìn từ trên xuống dưới, từ dưới lên trên, cả lớp nín thở căng thẳng, hai mươi sáu cặp mắt cùng nhìn thầy và cầu nguyện “Bỏ qua tên em! Bỏ qua tên em!”. Nhưng rồi thầy bất chợt ngẩng phắt đầu lên, không hiệu lệnh mà đều hơn cả trong quân ngũ, hai mươi sáu cặp mắt lập tức cụp xuống. Thầy lại từ từ nhướng mắt, nhìn qua sống mũi, bỏ qua cặp mắt kính quan sát chậm rãi hết đứa này đến đứa khác. Cuối cùng dĩ nhiên một đứa sẽ chịu trận, nhưng hai mươi sáu trái tim giờ Tiếng Nga nào cũng run rẩy chung một nhịp đập. Ngày đấy, đài báo, ti vi còn hạn chế chứ không như bây giờ, môn học của thầy dù đứa thích, đứa không, nhưng những hình vẽ trong sách giáo khoa và những câu chuyện của thầy về một đất nước xa lạ cũng đủ để dẫn dắt ước mơ của chúng tôi bay đến với miền đất của những bản tình ca ngọt ngào, của Pautopsky, Lermontov, Puskin…

Ngày cấp 3, mỗi tuần chúng tôi có một tiết học Chính trị, thường được xếp vào tiết 5. Cho đến giờ tôi vẫn không hiểu được tại sao Nhà trường khi xếp thời khóa biểu lại luôn ưu tiên môn Chính trị tiết 5 (cả tuần chúng tôi chỉ có một tiết 5). Giáo viên dạy Chính trị ở trường Phan duy nhất chỉ có thầy Quỳnh. Thầy Quỳnh đậm người, hơi thấp, nước da ngăm ngăm, khuôn mặt chất phác, hiền lành. Thú thật là sau bao năm học Chính trị của thầy Quỳnh tôi tuyệt đối không hề nhớ thầy dạy về cái gì, không biết làm sao mà ngày đấy làm được bài kiểm tra. Điều duy nhất nhớ là … đói. Cái cảm giác dạ dày cồn cào sau bốn tiết học, cái nỗi ghen tỵ khi nghe tiếng bọn nội trú của các lớp khác loảng xoảng khua thìa bát, nghêu ngao hát trên đường đi xuống nhà ăn nó ám ảnh đến tận bây giờ. Cả trường vắng teo, chỉ có mỗi một lớp phải ở lại để thấm nhuần tư tưởng. Lúc đấy cũng chẳng còn sức để mà nói chuyện riêng, làm việc riêng nữa, chỉ chăm chăm đếm từng phút chờ tiếng trống hết giờ. Một lần, có lẽ đói quá hóa liều. Tôi và Nguyên nhấm nháy nhau rồi cùng xin ra ngoài. Ra khỏi lớp hai đứa chạy vù lên văn phòng trường, lấm lét nhìn trước nhìn sau không thấy ai, vớ ngay lấy cái dùi trống gõ thật lực một hồi. Ba chân bốn cẳng chạy về lớp, mặt mũi nhớn nhác, chỉ sợ cô Chinh cầm dùi trống đuổi theo. May sao, chẳng ai nghi ngờ gì, cả lớp đã lục tục ra về, thầy đang sắp xếp lại sách vở.

Ba mươi năm đã trôi qua, giờ đến lượt chúng tôi đứng trên bục giảng, đi tiếp con đường mà các thầy cô đã đi, truyền tiếp ngọn lửa mà các thầy cô đã truyền cho chúng tôi. Mỗi lần muốn buông xuôi trước một học trò nghịch ngợm, lười học, vô lễ, lại nhớ đến thầy cô năm xưa, nhớ đến tuổi học trò của chính bản thân mình. Dù có nói bao lần cũng không thể đủ: Chúng con cám ơn thầy cô, cám ơn trường Phan đã cho chúng con tuổi thanh xuân tuyệt diệu.

GIÁNG VÂN[36]

LỬNG LƠ

Ta là con gái nhà quê

Một mình bước trên phố dài

Lòng nhớ nắng và nhớ gió

Nhớ đường làng tháng ba đưa hương bưởi

Hoa xoan ngát trời như mơ

Có một tuổi thơ của ta

Chân người ngập ngừng ngoài ngõ

Mặt người đa tình

Chiều bỗng gió

Câu hát lửng lơ, ơi câu hát lửng lơ

Ta là con gái nhà quê

Bao năm rồi ở phố

Em làm ta ghen quá thể

Như ghen với vầng trăng xanh biếc giêng

Với mặt trời của bể

Câu hát của em nồng nàn như thể đợi ai

Như thể rượu trong bình chờ người uống

Ta là con gái nhà quê

Không hiểu sao lại viết thơ buồn

Ta biết anh là của câu hát lửng lơ kia

Của một trời đắm say còn bỏ ngỏ

Ta biết lắm một ngày kia trong gió

Nồng nàn câu hát gọi anh theo

Em biết không

Ta buồn và ta khổ.

Ta là con gái nhà quê

Đã lâu rồi ở phố…

  1. Cựu học sinh niên khoá 1978-1981.
  2. * Cựu học sinh niên khoá 1981-1984
  3. Cựu học sinh niên khoá 2018-2021
  4. * Cựu học sinh niên khoá 1996-1999
  5. * Cực học sinh khoá 1977-1980
  6. Cựu học sinh niên khoá 1979 – 1982
  7. Cựu học sinh niên khoá 1984-1987
  8. Cựu học sinh niên khoá 2002-2005
  9. Cựu học sinh niên khoá 1985-1988
  10. Cựu học sinh niên khoá 1980-1983
  11. Cựu học sinh niên khoá 1985-1988
  12. Cựu học sinh 1987 – 1990
  13. Cựu học sinh gửi tặng thầy Trần Hữu Dinh
  14. Cựu học sinh niên khoá 1980-1983
  15. Cựu học sinh niên khoá 1985-1988
  16. Cựu học sinh niên khoá 1983 -1986
  17. Cựu học sinh niên khoá 1979-1982
  18. Cựu học sinh niên khoá 1977-1980
  19. Cựu học sinh niên khoá 1988-1991
  20. Tên thật là Nguyễn Việt Linh. Cựu học sinh niên khoá 2011-2014
  21. Cựu học sinh niên khoá 2000-2003, hiện là giáo viên nhà trường
  22. Cựu học sinh niên khoá 1977-2000
  23. Cựu học sinh niền khoá 1999- 2002
  24. Cựu học sinh niên khoá 1992-1996) – Cựu Bí thư Đoàn trường (1994-1996)
  25. Cựu học sinh niên khoá 1978-1981
  26. Cựu học sinh niên khoá 1984-1987
  27. Cựu học sinh niên khoá 2000-2003
  28. Cựu học sinh niên khoá 2001-2004
  29. Cựu học sinh niên khoá 1997-2000
  30. Cựu học sinh niên khoá 2001-2003
  31. Cựu học sinh niên khoá 1997-2000
  32. * Nguyên Phó Hiệu trưởng nhà trường

    ** Cách nói về cái bệnh ung thư máu quái ác được nhắc lại nhiều lần trong cuốn Muôn ánh mặt trời

  33. * Hoàng Thị Diệu Thuần là học sinh chuyên Nga trường THPT chuyên Phan Bội Châu. Khi em vào đại học chẳng may bị bệnh ung thư máu, phải chữa trị đủ các loại thuốc, có lúc tưởng chừng như không qua khỏi. Nhưng với ý chí kiên cường, em đã vượt qua số phận để sống, học tập, đóng góp cho cộng đồng. Cuốn sách Muôn ánh mặt trời em viết trong thời gian bị bệnh nặng không chỉ để tự động viên mình mà còn giúp cho những ai có số phận hẩm hiu giữ được niềm tin vào cuộc sống.
  34. Cựu học sinh niên khoá 2009-2012
  35. Cựu học sinh niên khoá 1986-1989
  36. Cựu học sinh niên khoá 1973-1976